Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 42, Chúa Nhật 03.06.2007


MỤC LỤC 

Giáo Hội Và Thiên Chức Con Người (tiếp theo)    Gaudium Et Spes                       Vatican 2

HIỆP THÔNG THEO TRUYỀN THỐNG                                                                            GSVN

Tác phẩm "Giáo hội cần loại Linh mục nào"? (tiếp theo)       Lm Lê Công Đức chuyển ngữ

CHÀNG THANH NIÊN GIÀU CÓ                                                       Hương Vĩnh chuyển ngữ

NÓI VỚI EM BÉ BÁN RONG BÁNH VÀ CÁ                                                      Xuân Ly Băng

VẤN ĐỀ GHI DANH và DÂNG CÚNG TIỀN CHO NHÀ THỜ                 Lm. Fx. Ngô Tôn Huấn

Noi gương Cha tôi                                                                        Luật sư Đoàn Thanh Liêm

ĐIỀU KHÁC THƯỜNG TRONG NHỮNG CÁI BÌNH THƯỜNG                    Trầm Tĩnh Nguyện

TÌNH YÊU KHÔNG GHEN TƯƠNG                 Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy chuyển ngữ

Thay Đổi Hình Dáng của tuổi Già                                                        Bác Sỹ Nguyễn Ý Đức


Giáo Hội Và Thiên Chức Con Người (tiếp theo)

Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay   Gaudium Et Spes

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Phần Thứ Nhất

Giáo Hội Và Thiên Chức Con Người 12*

19. Những hình thức và nguyên nhân vô thần 23*. Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người là con người được kêu gọi tớì kết hiệp với Thiên Chúa. Ngay từ lúc mới sinh ra, con người đã được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa: thực thế, con người hiện hữu chỉ là do Thiên Chúa đã vì yêu thương nên tạo dựng nên con người, và cũng vì yêu thương mà luôn luôn bảo tồn con người; hơn nữa con người chỉ sống hoàn toàn theo chân lý một khi tự ý nhìn nhận tình yêu ấy và phó thác cho Ðấng tạo dựng mình. Tuy nhiên có nhiều người đương thời với chúng ta không nhận ra hoặc công khai gạt bỏ sự liên kết mật thiết và sống động giữa con người với Thiên Chúa. Vì thế thuyết vô thần phải được kể là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong thời đại này và cần phải được nghiên cứu kỹ càng hơn.

Danh từ vô thần chỉ những hiện tượng rất khác nhau. Thực vậy, có người phủ nhận Thiên Chúa cách tỏ tường, có người lại nghĩ rằng con người hoàn toàn không thể quả quyết gì về Thiên Chúa cả. Có người muốn cứu xét vấn đề về Thiên Chúa theo một phương pháp làm cho vấn đề đó xem ra thiếu hẳn ý nghĩa. Vượt quá phạm vi khoa học thực nghiệm một cách vô lý, nhiều người hoặc chủ trương giải thích mọi sự chỉ bằng khoa học này, hoặc trái lại, hoàn toàn không chấp nhận một chân lý nào là tuyệt đối. Có người lại quá đề cao con người đến nỗi sự tin tưởng vào Thiên Chúa trở nên vô nghĩa; những người này xem ra muốn đề cao con người hơn là muốn chối bỏ Thiên Chúa. Có người hình dung ra cho mình một Thiên Chúa theo kiểu họ tưởng đến nỗi biểu tượng mà họ bài xích không còn điểm nào là Thiên Chúa của Phúc Âm cả. Cả vấn đề về Thiên Chúa cũng không hề được đặt ra bởi vì xem ra họ không cảm thấy áy náy gì về tôn giáo cũng như không thấy tại sao lại phải bận tâm về vấn đề đó. Ngoài ra, chủ nghĩa vô thần nhiều lúc phát sinh hoặc do sự phản kháng mãnh liệt chống lại sự dữ trong thế gian hoặc do nhận định sai lầm cho một số giá trị của con người là tuyệt đối đến nỗi lấy chúng thay thế cho chính Thiên Chúa. Ngay cả nền văn minh hiện đại nhiều lúc có thể làm cho khó đến với Thiên Chúa hơn, không phải tự nó, nhưng vì nó quá bám víu vào những thực tại trần gian.

Quả thực, những người không nghe theo tiếng nói của lương tâm, cố tình loại trừ Thiên Chúa ra khỏi lòng mình và tránh né những vấn đề tôn giáo, chắc chắn họ mắc lỗi. Song chính những tín hữu nhiều lúc cũng có một phần trách nhiệm về vấn đề này. Bởi vì chủ nghĩa vô thần nói chung không phải do một nguyên nhân duy nhất, nhưng trái lại nó phát sinh do nhiều nguyên nhân. Trong những nguyên nhân ấy còn phải kể tới phản ứng chỉ trích chống lại các tôn giáo, hơn nữa ở một vài nơi, còn chống lại cả Kitô giáo. Tín hữu có thể chịu phần trách nhiệm không phải là nhỏ trong việc khai sinh vô thần, hoặc bởi xao lãng việc giáo dục đức tin, hoặc trình bày sai lạc về giáo lý, hoặc do những thiếu sót trong đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội. Phải nói rằng họ che giấu hơn là bày tỏ bộ mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo.

20. Vô thần có hệ thống. Vô thần hiện nay nhiều khi cũng được trình bày như một hệ thống; không kể tới những nguyên nhân khác, hệ thống này quá nhấn mạnh đến khát vọng được tự lập của con người đến độ làm cho nó khó chấp nhận bất cứ sự lệ thuộc nào vào Thiên Chúa. Những người chủ trương thuyết vô thần như vậy cho rằng tự do hệ tại ở con người là chính cùng đích cho mình, là người tạo nên và điều khiển 24* lịch sử riêng của mình. Họ tưởng rằng quan niệm trên không thể đi đôi với sự nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tác thành và là cùng đích của mọi sự, hay ít ra quan niệm như thế thì quả quyết có Thiên Chúa cũng bằng thừa. Chủ thuyết này có thể được cổ võ thêm vì sự tiến triển về kỹ thuật hiện nay đem lại cho con người cảm tưởng mình đầy thế lực.

Trong số những hình thức vô thần hiện nay, không thể bỏ qua một hình thức vô thần mong giải phóng con người, nhất là giải phóng con người về phương diện kinh tế và xã hội. Hình thức vô thần này cho rằng tự bản chất, tôn giáo vẫn ngăn cản sự giải phóng trên, vì khi gây cho con người niềm hy vọng vào cuộc sống mai hậu và hão huyền, tôn giáo đã làm cho họ xao lãng việc xây dựng xã hội dương thế này. Bởi vậy, những người chủ trương lý thuyết ấy, một khi lên nắm chính quyền, họ kịch liệt chống lại tôn giáo, dùng cả những biện pháp cưỡng bách của chính quyền để truyền bá thuyết vô thần nhất là trong phạm vi giáo dục thanh thiếu niên.

21. Thái độ của Giáo Hội đối với chủ nghĩa vô thần. Trung thành với Thiên Chúa cũng như với con người, Giáo Hội không thể không tiếp tục lên án với nỗi đau buồn và với tất cả sự cương quyết, như đã từng lên án 16, những chủ thuyết vô thần và những hành động nguy hại đi ngược lại lý trí và kinh nghiệm chung của con người cũng như làm cho con người mất đi sự cao cả bẩm sinh của mình.

Tuy nhiên Giáo Hội vẫn cố gắng tìm hiểu những nguyên nhân chối từ Thiên Chúa tiềm ẩn trong tâm trí những người vô thần và ý thức được tầm quan trọng của những vấn đề do vô thần khơi lên và vì yêu thương mọi người, nên Giáo Hội thấy cần phải cứu xét những nguyên nhân ấy kỹ lưỡng và sâu xa hơn.

Giáo Hội cho rằng nhìn nhận Thiên Chúa không có gì nghịch lại với phẩm giá con người, vì phẩm giá ấy đặt nền tảng và nên hoàn hảo trong chính Thiên Chúa: bởi vì con người có trí tuệ và tự do được Thiên Chúa, Ðấng tạo dựng đặt để trong xã hội, nhưng nhất là vì con người được gọi đến thông hiệp với chính Thiên Chúa và tham dự vào hạnh phúc của Ngài như con cái. Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng hy vọng vào đời sống mai sau không làm giảm tầm quan trọng những bổn phận ở trần gian này mà trái lại còn thêm những động lực mới giúp hoàn tất những bổn phận ấy. Vả lại, nếu thiếu căn bản là Thiên Chúa và thiếu niềm hy vọng vào đời sống trường cửu thì phẩm giá con người sẽ bị tổn thương cách trầm trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết, về tội lỗi và đau khổ vẫn không giải đáp được, như thế con người nhiều khi rơi vào tuyệt vọng.

Trong khi đó, mỗi người vẫn còn là một câu hỏi chưa giải đáp cho chính mình, một câu hỏi chỉ thấy lờ mờ. Bởi vì có những lúc, nhất là trong những biến cố lớn lao của cuộc sống, không ai có thể hoàn toàn tránh được câu hỏi nói trên. Chỉ một mình Thiên Chúa là Ðấng kêu gọi con người suy nghĩ sâu xa hơn và tìm hiểu khiêm tốn hơn mới đem lại được câu giải đáp hoàn toàn và hết sức chắc chắn.

Ðể đem lại phương thuốc chữa trị vô thần, người ta phải cậy nhờ vào giáo lý được trình bày một cách thích hợp và nhờ đó vào đời sống thanh khiết của Giáo Hội cũng như của các chi thể của Giáo Hội. Bởi vì nhiệm vụ của Giáo Hội là làm sao cho Thiên Chúa Cha và Chúa Con nhập thể trở nên hiện diện và như thể thấy được bằng cách chính Giáo Hội tự đổi mới và không ngừng tinh luyện chính mình 17 dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ðiều đó trước hết nhờ chứng tá của một đức tin sống động và trưởng thành, nghĩa là một đức tin đã được huấn luyện để có thể sáng suốt nhận định và thắng vượt những khó khăn ấy. Rất nhiều vị tử đạo đã và còn đang hùng hồn làm chứng cho đức tin ấy. Ðức tin đó phải biểu lộ sự phong phú của mình bằng cách thấm nhập vào toàn thể đời sống của các tín hữu, kể cả đời sống thế tục, và thúc đẩy họ sống công bằng, bác ái nhất là đối với người nghèo khổ. Sau hết, điều có thể làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa hơn cả là đức ái huynh đệ của các tín hữu như họ đồng tâm nhất trí cộng tác cho đức tin Phúc Âm 18 và tỏ ra họ là dấu chỉ hiệp nhất.

Thực vậy, Giáo Hội dù hoàn toàn bác bỏ thuyết vô thần, nhưng vẫn thành thực tuyên bố rằng mọi người, dù tin hay không tin, cũng đều phải trợ lực cho việc xây dựng thế giới này được hợp lý, là nơi họ đang chung sống: điều ấy chắc chắn không thể có được nếu thiếu cuộc đối thoại thành thực và khôn ngoan. Bởi vậy Giáo Hội phàn nàn về sự kỳ thị giữa những người tin và không tin do một số nhà lãnh đạo quốc gia gây ra một cách bất công khi không nhìn nhận những quyền lợi căn bản của con người. Riêng đối với các tín hữu, Giáo Hội đòi cho họ phải được tự do đích thực để họ có thể xây dựng đền thờ Thiên Chúa ngay tại trần gian này. Ðối với những người vô thần, Giáo Hội nhân ái mời gọi họ hãy nghiên cứu Phúc Âm Chúa Kitô với một tâm hồn cởi mở.

Bởi vậy, Giáo Hội đã biết rõ sứ điệp của mình phù hợp với những khát vọng thầm kín nhất của lòng người, khi Giáo Hội bênh vực thiên chức con người và do đó đem lại niềm hy vọng cho những ai đã thất vọng về vận mạng cao cả của mình. Sứ điệp của Giáo Hội chẳng những không làm suy giảm con người mà trái lại còn đổ tràn ánh sáng, sự sống và tự do để giúp con người tiến bộ. Ngoài sứ điệp đó không còn gì khác có thể thỏa mãn được lòng người. "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con để chúng con đến với Chúa, và tâm hồn chúng con còn thao thức cho tới khi được an nghỉ trong Chúa" 19.

22. Chúa Kitô, Con Người Mới. Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì Adam con người đầu tiên đã là hình bóng của Adam sẽ đến 20, là Chúa Kitô. Chúa Kitô, Adam mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, đã cho con người biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên chức rất cao cả của họ. Bởi vậy không lạ gì khi những chân lý đã nói ở trên đều tìm thấy nguồn gốc của chúng và đạt tới tột điểm nơi Người.

Là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" (Col 1,15) 21, chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của Adam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch. Bởi vì nơi Người bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt 22, do đó chính nơi chúng ta nữa bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người 23, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi 24.

Là Chiên vô tội Người tự ý đổ máu ra để cho chúng ta được sống, và chính trong Người Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và hòa giải giữa chúng ta với nhau 25 cũng như đem chúng ta ra khỏi ách nô lệ của ma quỉ và tội lỗi, do đó mỗi người chúng ta đều có thể nói như Thánh Tông Ðồ rằng: Con Thiên Chúa "đã yêu thương tôi, lại hiến thân cho tôi nữa" (Gal 2,20). Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Người nêu gương để chúng ta theo vết chân Người 26, nhưng Người còn mở ra con đường mới để nếu chúng ta theo Người thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới.

Con người Kitô hữu khi trở nên giống hình ảnh Chúa Con là Trưởng Tử trong đoàn anh em đông đúc 27, họ nhận được "những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần" (Rm 8,23), nhờ đó họ có thể chu toàn lề luật yêu thương mới 28. Nhờ Thánh Thần làm "bảo chứng cho quyền thừa tự" (Eph 1,14), toàn thể con người được canh tân từ nội tâm cho tới khi "thân xác được cứu rỗi" (Rm 8,23): "Nếu Thánh Thần Chúa là Ðấng đã khiến Chúa Giêsu từ kẻ chết sống lại cư ngụ trong anh em, chính Ðấng đã khiến Chúa Giêsu Kitô từ kẻ chết sống lại đó cũng sẽ làm sống động thân thể hay hư nát của anh em nhờ Thánh Thần Ngài ở cùng anh em", (Rm8,11) 29. Người Kitô hữu chắc chắn cần thiết và có bổn phận chiến đấu chống sự dữ khi phải trải qua nhiều gian nan cũng như phải chết nữa. Nhưng vì được dự phần vào mầu nhiệm phục sinh, 25* được đồng hóa với cái chết của Chúa Kitô, được mạnh mẽ nhờ đức cậy, họ sẽ được sống lại 30.

Ðiều nói trên không phải chỉ có giá trị cho các tín hữu nhưng cho tất cả những ai có thiện chí được ơn thánh hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn 31. Thực vậy, vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người 32 và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh ấy, cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi.

Ðó là tính chất và sự cao cả của mầu nhiệm con người, mầu nhiệm được Mạc Khải Kitô giáo soi sáng cho các tín hữu. Vậy nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm. Chúa Kitô đã sống lại nhờ sự chết của mình. Người đã hủy diệt sự chết và Người đã ban cho ta dồi dào sự sống 33 để là con cái trong Chúa Con chúng ta kêu lên trong Thánh Thần: Abba, lạy Cha! 34.

 


Chú Thích:

(lưu ý: những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)

23* Công Ðồng nhắc lại rất vắn tắt nhiều khía cạnh của hiện tượng đi ngược lại với phẩm giá của con người hơn cả: đó là vô thần. Nhiều Nghị Phụ đã muốn lên án vô thần một lần nữa, nhất là vô thần cộng sản. Nhưng tinh thần mới (x. lời giới thiệu) đã thắng thế.

1) Hình thức (số 19b): Công Ðồng nhắc lại nhiều hình thức khác nhau do một số lý do: a) vì triết thuyết (phủ nhận Thiên Chúa; quả quyết con người không thể biết gì về Chúa; đặt vấn đề về Thiên Chúa một cách lệch lạc vô nghĩa); b) vì đầu óc khoa học (muốn áp dụng khoa học vào phạm vi ở ngoài phạm vi của nó; do đó không nhận chân lý tuyệt đối); c) vì chủ nghĩa nhân bản (quá đề cao con người; Thiên Chúa không quan trọng; coi giá trị nhân bản như tuyệt đối; hai hình thức trong số 20 cũng có tính cách nhân bản: con người phải hoàn toàn tự trị không cần đến Chúa; hay là phải hoàn toàn tự lập về kinh tế xã hội không bị tôn giáo ràng buộc); d) vì quan niệm sai lầm về Chúa (từ chối một Thiên Chúa không phải là do Phúc Âm cho biết; tin nơi Thiên Chúa để làm gì?); e) vì vấn nạn về sự dữ; f) vì đầu óc phàm trần (do văn minh hiện đại dễ gây nên).

2) Nguyên nhân: Ngoài lý do vừa kể, vô thần có thể có: a) do tội của cá nhân; b) nhưng một phần cũng có thể vì các tín hữu chưa được đức tin đào tạo, vì nhiều khi trình bày đức tin cách khờ khạo, vì đời sống không hợp với đức tin, đặc biệt là sinh hoạt xã hội (số 19c).

3) Thực tại của Giáo Hội: Vô thần là trái với lý trí, với kinh nghiệm chung của nhân loại, với phẩm giá của con người, a) thì Giáo Hội không thể không lên án nó; b) nhưng đàng khác Giáo Hội muốn đối thoại với người vô thần, trình bày với họ rằng vô thần thiếu nền tảng vững chắc (phẩm giá con người đòi hỏi phải tùng phục Thiên Chúa, và lòng tin nơi Thiên Chúa không ngăn cản con người lo cho công việc phải làm để xây dựng thế giới, các thắc mắc căn bản, trước hết về ý nghĩa chính con người, không giải thích được; c) Giáo Hội muốn các tín hữu dấn thân vào công việc chung đó; d) mong đợi người vô thần sẽ tôn trọng quyền tự do của họ và hơn nữa sẽ thành thật tìm hiểu tinh thần Phúc Âm; e) còn tính hữu không những phải biết trình bày đức tin, mà nhất là phải sống với đức tin sống động và với đức mến nồng nàn để mọi người có thể nhận thấy Chúa qua Giáo Hội.

Về vô thần cộng sản, Công Ðồng chỉ nhắc lại hai tính cách, dù chưa đủ để diễn tả nó hoàn toàn, nhưng cũng quan trọng: a) tính cách nhân bản nhằm giải thoát con người trong lãnh vực kinh tế, xã hội; b) tính cách độc tài và không chịu điều đình khi chiếm quyền chính trị.

Mác xít chủ nghĩa là một khái niệm cho rằng thế giới tự nó là hoàn toàn và mang đầy đủ ý nghĩa, vì thế nó loại trừ mọi tín ngưỡng tôn giáo. Lịch sử, con người, xã hội v.v... đều có ý nghĩa và phát triển theo đòi hỏi biện chứng pháp. Nó mang tính cách tín ngưỡng hơn là khoa học vì mục đích cuối cùng là giải thoát (cứu chuộc) con người khỏi các sự mất nhân cách, cũng như vì đem lại một niềm hy vọng (thay thế đức cậy) vào sự giải thoát đó trong tương lai.

Cũng như Giáo Hội, các tín hữu phải loại bỏ thái độ thù hằn, tranh đấu, nghi ngờ... mà trong khi lên án vô thần (hơn nữa chính vì thế) phải tìm hiểu tâm trạng của người vô thần để cùng nhau xây dựng thế giới, và nếu có thể được, để đối thoại với họ. Ðối thoại một cách thành thực và khôn ngoan, không giấu giếm đức tin mình mà trái lại, vì không thể đối thoại thực sự khi không biết minh chứng bằng đời sống mình trước hết và bằng việc trình bày giáo lý một cách đầy đủ và thích hợp (x. thêm số 28b).

Ðối thoại như vậy phải chăng là mới lạ? Nhưng Công Ðồng đã nhắc cho chúng ta rằng chúng ta đang sống giai đoạn mới (x. số 4b).

24* Công Ðồng dùng danh từ Hy Lạp demiurgus. Một số triết gia xưa gọi demiurgus là một thần tạo dựng vũ trụ mặc dầu không phải là Ðấng Tối Cao.

25 Xem 2Cor 5,18-19; Col 1,20-22.      26 Xem 1P 2,21; Mt 16,24; Lc 14,27.

27 Xem Rm 8,29; Col 1,18. 28 Xem Rm 8,1-11. 29 Xem 2Cor 4,14.

30 Xem Ph 3,10; Rm 8,17.

31 Xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch.II, số 16: A AS 57(1965), trg 20.

32 Xem Rm 8,32.   33 Xem Liturgia Paschalis Byzantina.

34 Xem Rm 8,15; Gal 4,6; Gio 1, 12 và 1Gio 3,1.

 
VỀ MỤC LỤC
HIỆP THÔNG THEO TRUYỀN THỐNG

 

1- CÁC GIÁO PHỤ

Thánh Irenée : Hiệp thông vì cùng một đức tin duy nhất.

“Nhiều dân tộc, nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhưng cùng một đức tin duy nhất Giáo hội, mặc dầu tản mác trên toàn thế giới cho đến mút cùng trái đất, nhưng đã lãnh nhận từ các tông đồ và từ môn đệ của các ngài, niềm tin vào chỉ một Thiên Chúa là Cha toàn năng… và một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa … và tin vào Thánh Thần…Giáo hội, dầu tản mác khắp nơi trên thế gian, đã ân cần gìn giữ những điều đó, như thể chỉ ở trong một nhà. Giáo hội tin vào đó theo cùng một cách thức, như thể chỉ có một tâm hồn, một trái tim và Giáo hội đồng thanh rao giảng, giáo huấn, truyền đạt những điều đó như thể chỉ có một miệng lưỡi” (Saint Irenee de Lyon. Contre les hérésies, 1. 10. 1- 2. Traduction A. Rousseau. Le Cerf. Paris. 1984. P. 65- 66).

Như thế, sự hiệp nhất trong đức tin đòi hỏi phải hiệp nhất trong nội dung đức tin, nghĩa là mọi người ở mọi nơi đều tin những điều giống nhau, và điều đó có thể kiểm chứng được.

Thánh Ignace d’ Antioche : Hiệp thông được đặt nền tảng trên Thiên Chúa và Đức Kitô.

Thánh nhân quan tâm đặc biệt tới vấn đề hiệp nhất các Kitô hữu. Theo ngài, Giáo hội là sự kết hợp, hiệp nhất, đồng tâm, một Agape. Đó là điều Thiên Chúa và Đức Kitô muốn, và tất cả đều đặt nền tảng trên Thiên Chúa và Đức Kitô. Giáo hội là Công giáo, nghĩa là phổ quát, do sự hiệp thông giữa các Giáo hội với nhau, một sự kết hợp vừa thần bí, vừa luân lý, được ban trong Đức Kitô và trong Thần khí, đồng thời là đối tượng của một nỗ lực không ngừng.

Trong thư gởi tín hữu Ephêsô, ngài viết: “Anh em, mọi người và từng người, hãy làm nên một ban hợp xướng, để trong sự hòa điệu các thanh âm của anh em, khi bắt theo cung giọng của Thiên Chúa trong hiệp nhất, nhờ Đức Giêsu Kitô, anh em cất lên, bằng cùng một tiếng hát, một thánh thi dâng lên Cha, ngõ hầu Người lắng nghe anh em và nhìn nhận anh em, nhờ những việc lành anh em làm như là chi thể Con của Người. Vì thế, thật ích lợi cho anh em, nếu anh em ở trong sự hiệp nhất vô phương trách cứ, hầu mãi mãi được thông dự vào Thiên Chúa”.

Trong thư gởi tín hữu Magnésie, ngài khuyên nhủ họ: “Chớ gì giữa anh em, không một điều gì có thể phân rẽ anh em… cũng như Chúa đã không làm điều gì, dù là tự mình hay qua các Tông đồ mà lại không có Cha, vì Ngài hằng hiệp nhất với Cha. Cũng vậy, cả anh em nữa, anh em đừng làm bất cứ điều gì mà lại không có Giám mục và các Trưởng lão (Prebytres): điều gì anh em làm theo riêng mình thì đừng cố coi đó là hợp lý, mà phải là những gì anh em làm chung với nhau: một kinh nghiệm duy nhất, một lời khẩn cầu duy nhất, một Thần khí duy nhất, một niềm hy vọng duy nhất trong đức ái, trong niềm vui vô phương trách cứ, đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng đáng yêu mến hơn tất cả. Tất cả anh em hãy nhanh chân chạy như thể về một Đền thờ duy nhất của Thiên Chúa, như thể quanh một bàn thờ duy nhất, về Đức Giêsu Kitô duy nhất, Đấng đã xuất tự Cha duy nhất, Đấng đã ở trong Duy nhất và đã trở về với Người” (Sources Chrétiennes, số 10 bis, tr. 61. 81- 87).

Maxime le Confesseur : Hiệp thông vì cùng thuộc về Đức Kitô. 

Tất cả mọi người, dù khác biệt nhau, đều sinh thành trong Hội thánh và nhờ hoạt động của Hội thánh mà được tái sinh và tái tạo nhờ Thánh Thần. Với mọi người, Hội thánh đã trao ban và đang trao ban cách đồng đều một hình thái và một danh hiệu thần linh duy nhất, đó là thuộc về Đức Kitô và được mang danh Ngài. Hội thánh cũng trao ban cho mọi người, thể theo đức tin, một cách thế hiện hữu duy nhất, thuần nhất và bất khả phân chia… Chính vì mọi người mà tuyệt đối không ai bị tách ra khỏi cộng đoàn, bởi vì tất cả cùng quy tụ và được hiệp nhất với nhau nhờ hoạt động của ân sủng đức tin. Các tín hữu, dù khác biệt nhau, nhưng họ được kết hợp lại với nhau trong Hội thánh nhờ đức tin (cf. Maxime. Mystagogie I, PG 91, 665C- 668C). 

Thánh Augustinô : Nhờ Thánh Linh.

“Hãy nhìn xem các chi thể chúng ta; thân thể do nhiều chi thể họp thành; nhưng chỉ có một tâm linh sinh trưởng trong mọi chi thể … Tâm linh chúng ta như thế nào, nghĩa là linh hồn chúng ta đối với các chi thể mình thế nào thì Thánh linh cũng đối với các chi thể Chúa Kitô, với Thân Thể Chúa Kitô là Giáo hội như thế” (Sermo 268, 2; PL 38, 1232).

Thánh Gioan Chrysostome : Nhờ Thánh Linh. 

“Sự duy nhất của Thánh linh là gì? Cũng như trong thân thể chỉ có một tâm linh ở trong tất cả và tạo thành sự hiệp nhất cho tất cả, vì nó ở trong mọi chi thể; Thánh linh cũng ở trong Giáo hội như vậy. Ngài đã được ban để kết hợp mọi dị biệt do chủng tộc và phong hóa: kẻ già với người trẻ, giàu với nghèo, trẻ nhỏ với người lớn, đàn ông với đàn bà, mọi người trong Giáo hội trở nên một điều thôi, được kết hợp chặt chẽ hơn là trong một thân thể duy nhất (Hem. 9, 3; PG 62, 72). 

Thánh Cyrille : Giáo hội duy nhất nhờ bí tích Thánh Thể. 

“Tuy chúng ta khác nhau do sự khác biệt của mỗi người, và vì chúng ta có linh hồn và thể xác riêng, nhưng người Con một đã đưa ra phương thế để chúng ta được đi vào trong sự duy nhất với Thiên Chúa và duy nhất với nhau: khi hiến thánh trong cùng một thân thể duy nhất, thân thể của Ngài, Ngài làm cho họ được trở nên đồng thân thể với chính Ngài và đồng thân thể với nhau. Nếu tất cả chúng ta tham dự vào cùng một bánh, thì chúng ta tất cả trở nên cùng một thân thể. Đức Kitô không hề bị bất cứ sự phân chia nào. Chúng ta tất cả được hiệp nhất với cùng một Đức Kitô nhờ Thánh Thể của Ngài, vì chúng ta đón nhận Ngài như  là Đấng duy nhất và bất khả phân chia, vào trong chính thân thể của chúng ta…Nếu tất cả chúng ta cùng đồng thân thể với nhau, và cả với Ngài nữa, bởi lẽ Ngài đến trong chúng ta bằng chính xác thịt Ngài, thì rõ ràng lẽ nào chúng ta lại không là một với nhau và là một trong Đức Kitô? Đức Kitô quả thực là mối dây duy nhất” - Comm. Sur Jean XI, 11 (Jean 17, 20- 21) PG 74, 560 AD). 

Thánh Hiêrônimô : Phêrô và các tông đồ.

Thánh nhân viết : “Giáo hội được thiết lập trên Phêrô; dù một chỗ khác nói rằng Giáo hội cũng được xây trên tất cả các sứ đồ khác, … và sự bền vững của Giáo hội cũng dựa vào họ, nhưng lý do tuyển chọn một vị duy nhất giữa nhóm 12 là một khi đã có đầu, thì sẽ tránh được cớ ly khai” (Adv Iovin. 1, 126).

Thánh Cyprien : Sự hiệp thông trên bình diện hữu hình dựa trên sự kết hợp chặt chẽ của hàng Giám mục.

Theo thánh nhân, sự duy nhất của Giáo hội không chỉ thuộc bình diện thiêng liêng, nó còn thuộc bình diện hữu hình, dựa trên sự kết hợp chặt chẽ của hàng Giám mục. Hàng Giám mục này tạo nên một “đoàn thể”, mà các thành viên phải gìn giữ sự hiệp nhất với nhau. Giám mục chỉ có quyền với tư cách là thành viên của đoàn thể này. Ngài là dấu chỉ và là trung tâm hiệp nhất của mỗi Giáo hội địa phương.

Sự hiệp nhất của Giáo hội có nguồn gốc duy nhất được cụ thể hóa nơi con người Phêrô, rồi nơi Giáo hội do ngài “thiết lập” và nơi vị thủ lãnh Giáo hội. Như vậy, Giáo hội ở Rôma là nguồn hiệp nhất cho mọi Giáo hội: “Giáo hội đứng đầu mà từ đó phát xuất sự hiệp nhất tư tế (hiệp nhất của hàng Giám mục )”. “Chúa nói với Phêrô: và Ta, Ta bảo ngươi: ngươi là Đá và trên Đá ấy Ta sẽ xây Hội thánh của Ta. Sau khi Phục sinh, cũng chính với Phêrô, Ngài nói: Hãy chăn dắt chiên của Ta. Ngài xây Giáo hội chỉ trên một người và Ngài trao phó các chiên của Ngài cho ông chăn dắt. Và mặc dầu Chúa trao cho mọi Tông đồ quyền bính ngang nhau, song lại chỉ lập một ngai tòa duy nhất và bằng uy quyền của Ngài, Ngài đã sắp đặt nguồn gốc và hình thái của sự duy nhất. Thánh Cyprien còn định nghĩa Giáo hội là “một dân được hiệp nhất lại nhờ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Kinh Lạy Cha, số 23; cf. LG, số 4).

 

2- CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II 

Công đồng Vaticanô trong hiến chế “Lumen gentium” đã xác quyết tự bản chất Giáo hội là bí tích, nghĩa là vừa là dấu chỉ, vừa là phương thế hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhân loại :

“Vì Giáo hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kiết hiệp mật thiết và sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại”. (GH số 1).

“ Thiên Chúa triệu tập tất cả những người tin kính và mong đợi Đức Kitô, Đấng ban ơn cứu độ và hiệp nhất, nguyên lý của sự hòa bình. Ngài thiết lập họ thành Giáo hội để Giáo hội trở nên bí tích hữu hình của sự hiệp nhất cứu độ ấy cho toàn thể và cho mỗi người”. (GH số  9)

Sự hiệp nhất ấy cần phải được phát triển không ngừng :

“Mọi người được mời gọi gia nhập dân tộc mới của Thiên Chúa. Vì thế, dân mới này, một dân duy nhất và hiệp nhất, có bổn phận phải lan rộng khắp thế giới,trải qua mọi thế hệ…” (GH số 13).

Vì thế, mỗi người chúng ta có bổn phận phải góp phần nhỏ bé của mình vào sự hiệp nhất ấy bằng sự thông hiểu và kính trọng lẫn nhau :

“ Mọi người đều được mời gọi vào sự hiệp nhất công giáo này của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy tiên báo  và cổ võ nền hòa bình phổ quát. Họ thuộc về hoặc hướng về sự hiệp nhất đó dưới nhiều thể cách khác nhau, được sắp xếp  hoặc họ là tín hữu công giáo, hay là những người tin Chúa Kitô, hoặc sau cùng tất cả mọi người không trừ ai đều được ơn Thiên Chúa kêu mời lãnh nhận phần rỗi.” (GH số 13)

Trong sắc lệnh về Hiệp nhất, Công đồng cũng kêu gọi :

“Sự hoán cải tâm hồn và đời sống thánh thiện làm một với những lời cầu khẩn chung hay riêng cho sự hiệp nhất các Kitô hữu  phải được coi như là linh hồn của tất cả phong trào hiệp nhất và xứng đáng mệnh danh là sự hiệp nhất thiêng liêng.” (HN số 8)

Đặc biệt, Công đồng nhắc nhở chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiệp nhất ấy :

“Người công giáo thường có thói quen hội nhau để cầu nguyện cho Giáo hội được hiệp nhất, lời cầu nguyện mà chính Đấng Cứu Thế trước ngày tử nạn đã khẩn khoản dâng lên Chúa Cha : Xin cho tất cả nên một (Gio 17,21). Trong vài trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như những dịp được chính thức tổ chức cầu nguyện cho hiệp nhất và trong các buổi hội thảo về hiệp nhất, chẳng những người công giáo được phép mà còn phải được khuyến khích hiệp nhau cầu nguyện với các anh em ly khai. Những kinh nguyện chung như thế là phương tiện rất hữu hiệu để xin ơn hiệp nhất và tiêu biểu thực sự  mối dây còn đang liên kết người công giáo với các anh em ly khai: Vì đâu có hai ba người nhân danh Thày mà hội họp lại, Thày sẽ ở giữa họ (Mt 18,20)”. (HN số 8)

 

3- ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II

Được chuẩn bị trong Cựu ước, được Đức Kitô thành lập và được Chúa Thánh Thần giới thiệu cho thế giới trong ngày lễ Ngũ tuần :

- Giáo hội là Dân Thiên Chúa, là Thân Thể Chúa Kitô, là Đền thờ Chúa Thánh Thần (Ecclesia in Asia số 24).

- Giáo hội là chương trình tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại : “Giáo hội trong thế giới này chính là kế hoạch yêu thương nhân loại của Thiên Chúa mà con người có thể trông thấy chính là bí tích của sự cứu độ”. (Ecclesia in Asia số 24). Nói cách khác, Giáo hội phải là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại, thấy Giáo hội là cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa.

- Giáo hội là bí tích của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con   người : “ Dù cưu mang trong mình nhiều con người tội lỗi chăng nữa, Giáo hội cũng phải được chúng ta coi là nơi ưu tiên cho Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau, là nơi Thiên Chúa quyết định mặc khải đời sống nội tâm nhiệm màu của mìnhvà thực hiện chương trình cứu độ thế giới.” (Ecclesia in Asia số 24).

- Đồng thời, Giáo hội còn là bí tích của sự hiệp thông giữa con người với nhau : “Một khi kết hợp với Chúa Con trong mối dây yêu thương của Chúa Thánh Thần, các Kitô hữu cũng kết hợp với Chúa Cha và từ sự hiệp thông này mà các Kitô hữu được hiệp thông với nhau qua Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần.” (Ecclesia in Asia số 24).

Sự hiệp thông trước hết phải được thể hiện trong nội bộ của Giáo   hội :

Đối với Giáo hội toàn cầu : Các Giáo hội địa phương phải hiệp thông cùng đấng kế vị thánh Phêrô : “Mỗi Giáo hội địa phương phải được xây dựng  vững vàng bằng cách minh chứng tinh thần hiệp thông với Giáo hội, vì đây chính là bản chất làm cho các cộng đoàn ấy là Giáo hội.” (Ecclesia in Asia số 25)

Đối với các Giáo hội địa phương : Các cộng đoàn phải hiệp thông với vị Giám mục của mình: “Giáo phận là sự hiệp thông của các cộng đoàn chung quanh vị mục tử, trong đó giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân tham gia cuộc đối thoại bằng đời sống và bằng tâm hồn, cuộc đối thoại được Chúa Thánh Thần nâng đỡ.” (Ecclesia in Asia số 25).

Mỗi Giáo hội địa phương phải trở thành “một Giáo hội tham gia”, nghĩa là mọi người cùng cộng tác với nhau trong bổn phận của mình : “Giáo hội tham gia là Giáo hội trong đó mọi người đều sống đúng ơn gọi riêng của mình và thi hành đúng vai trò riêng của mình.” (Ecclesia in Asia số 25). Giáo hội làm phát triển cách phong phú các đặc sủng của mỗi thành phần trong Giáo hội, nhất là của giáo dân, tu sĩ trong việc lập các kế hoạch mục vụ thông qua Hội đồng mục vu và Hội nghị giáo xứ (Ecclesia in Asia, số 25).  Giáo hội hiệp thông là Giáo hội mà mỗi thành phần đều có trách nhiệm và không ai nắm độc quyền Thánh Thần. Tông huấn nhắc nhở ta phải quan tâm đến các thành phần nghèo khổ, giới trẻ trong giáo xứ, thiết lập những cộng đoàn Giáo hội cơ bản và gầy dựng các phong trào canh tân.

Tóm lại, sự hiệp thông được diễn tả qua việc liên kết với Giáo hội toàn cầu qua Đấng kế vị thánh Phêrô, với giáo phận qua Đức Giám mục và với  giáo xứ qua những vị chủ chăn của mình.

GSVN

VỀ MỤC LỤC
Tác phẩm "Giáo hội cần loại Linh mục nào"? (tiếp theo)

 

Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:

PRIESTHOOD IMPERILED,   Tác giả: BERNARD HARING, C.SS.R.

KINH NGHIỆM GÓP NHẶT TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI TÔI (tiếp theo kỳ trước)

Giữa đám dân tị nạn

Ít lâu sau chiến tranh, niềm hy vọng thừa sai của tôi được hiện thực hóa giữa những nạn nhân chiến tranh. Tôi và vài linh mục đồng sự trải qua một số năm rao giảng Tin Mừng cho những người tị nạn Công Giáo không nhà cửa ở Đức – họ sống trong những vùng, mà cho tới thời ấy, là những vùng riêng của Tin Lành. Không có một tổ chức giáo xứ hay cộng đoàn Công Giáo nào tồn tại ở đấy. Suốt thời gian đó, mỗi năm tôi bỏ ra khoảng mười tuần để viếng thăm các vùng nói trên với ba linh mục khác – nhưng mỗi người chúng tôi phụ trách các thị trấn hay các làng riêng.

Ban đầu, chúng tôi thăm từng gia đình trong một khu vực nào đó - và đôi khi vị mục sư Tin Lành cho chúng tôi mượn nhà thờ để qui tụ và cử hành phụng tự. Tuy nhiên, đa số các trường hợp, chúng tôi thuê một vũ trường hay một căn phòng rộng để làm địa điểm qui tụ. Việc ăn uống ngủ nghỉ của chúng tôi do chính những người dân tị nạn này sắp xếp.

Tại một thị trấn nhỏ, không có người tị nạn Công Giáo nào mời tôi ngủ lại trong nhà họ, vì thế tôi đi tới một phòng trọ của một người Tin Lành. Chủ nhân cung cấp cho tôi một chỗ vốn thường dành cho những người ăn xin lang thang. Tôi không ngạc nhiên khi nhận thấy các tấm trải giường lâu rồi chưa được thay. Vì những người ăn xin không có tiền để chi trả, nên chủ phòng trọ không buồn nghĩ đến chuyện săn sóc giường chiếu cho họ. Khi gia đình của một giáo viên Tin Lành phát hiện ra tôi đang ở đấy, họ thay tấm trải giường cho tôi, mời tôi đi ăn tối, và thậm chí báo cho các người tị nạn Công Giáo biết về tình trạng chỗ ở của tôi. Nhờ biến cố đó, tôi đã nhận được sự trợ giúp đáng kể của những người tị nạn nhiệt tình liên đới với tôi.

Trước khi tôi nhận sứ vụ đặc biệt này, với lòng hăng hái của một linh mục, tôi đã chuẩn bị mười sáu bài giảng về các chủ đề chính của Kitô giáo, nhưng tôi đã không bao giờ dùng đến bất cứ bài nào trong số đó! Sống gần gũi người nghèo, tôi sớm hiểu ra rằng cách tốt nhất để rao giảng Lời Chúa cho họ là tiên vàn phải biết lắng nghe những ưu tư, hy vọng và niềm vui của họ.

Chính trong những năm đầy khó khăn thử thách ấy mà tôi đã bắt đầu viết ra các tư tưởng của mình, kết đọng lại trong tác phẩm ba tập Luật của Đức Kitô. Nếu không có những kinh nghiệm chia sẻ cuộc sống với bao người nghèo khổ và túng thiếu thời chiến tranh và sau chiến tranh như thế, thì bản văn kia của tôi rất có thể đã khác đi rất nhiều.

Quả thật, quãng thời gian đó đã giúp tôi nhận hiểu hơn rất nhiều về con người và sứ vụ của Đức Giêsu, Đấng đã đi khắp các thị trấn và làng mạc Galilê rao giảng Tin Mừng cho người nghèo và là Đấng không bao giờ biết mình sẽ tựa đầu vào đâu. Việc săn sóc và rao giảng Tin Mừng cho các quân nhân và những người tị nạn đã trở thành một kinh nghiệm căn bản cho tôi. Mười tám quốc gia Phi Châu mà tôi đã phục vụ (một cách không liên tục) trong quãng thời gian hai mươi năm sau Công Đồng Vatican II đã định hình nhãn quan, các ý tưởng và các phương thức thi hành sứ vụ của tôi trong Thế Giới Thứ Ba, và cũng đã hiện thực hóa những niềm hy vọng truyền giáo trước đây của tôi gấp trăm lần.

Những kinh nghiệm vừa có sức thay đổi đời sống vừa có tính thách đố sâu xa này đã cho phép tôi nhận thức những vấn đề nền tảng mà tôi nghĩ rằng rất có thể mình không bao giờ thực sự nhận hiểu nếu như mình không sống giữa người nghèo. Những kinh nghiệm ấy cũng giúp đào sâu nhận thức của mình về vai trò của người linh mục xét như là môn đệ Đức Kitô. Quả thật, làm sao chúng ta có thể thực sự chia sẻ sứ điệp Tin Mừng với những người cùng khổ nếu chúng ta không sẵn sàng đảm nhận thân phận nghèo của họ? Biết về cái nghèo và sống cái nghèo, hai điều ấy hoàn toàn khác nhau. Trở thành môn đệ của Con Người, điều đó đòi hỏi chúng ta phải suy niệm hằng ngày - ở đây, bây giờ, và trong bối cảnh cuộc sống cụ thể - về ý nghĩa của tiếng gọi trở thành “một người trong chúng ta”. Tất cả điều này sẽ trực tiếp cho thấy chúng ta có thực sự “biết Đức Kitô” hay không. Vâng, chúng ta chỉ “biết” Đức Giêsu Kitô thông qua việc dấn thân giúp đỡ những người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị bóc lột và bất cứ ai cần chúng ta giúp đỡ.

Đánh thức ơn gọi

Tìm cách đánh thức và nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo giữa những người tị nạn, đó là một trong những mục tiêu sứ vụ thiết thực nhất của chúng tôi. Việc hiện thực hóa những mục tiêu đó đã nhắc tôi nhớ đến Thánh Phaolô và các bạn đường của ngài – các ngài không bao giờ rời một nơi bao lâu các ngài chưa phát hiện và đào tạo được những con người có khả năng thiết lập và phát triển cộng đoàn tín hữu, những người sẽ tiếp tục công việc của các ngài. Tại mỗi nơi, chúng tôi có thể nhận ra những người nam cũng như nữ sẵn sàng đồng hành với chúng tôi và - khi cần – giới thiệu chúng tôi cho các gia đình.

Kinh nghiệm đầu tiên của tôi trong việc tuyển chọn những người giáo dân có tiềm năng cho sứ vụ này là trong một vùng Tin Lành đôi khi có bầu khí căng thẳng – nơi mà những người tị nạn sống tạm bợ. Ở đó tôi đã may mắn có hai phụ nữ cao niên thánh thiện và một phụ nữ 22 tuổi tên là Matje. Trong khi hai phụ nữ cao niên kia tỏ ra hết sức nhiệt thành, thì tôi cũng nhận thấy rằng họ cần điều chỉnh một đều gì đó. Số là hai phụ nữ này khư khư yêu cầu tôi đừng viếng thăm một gia đình Công Giáo nọ mà họ cho là quá bê bối. Mỗi lần họ nêu chuyện này ra, tôi hết sức kiên nhẫn và ân cần giải thích cho họ rằng tiêu điểm của sứ mạng Đức Giêsu là tìm kiếm chính những loại người đặc biệt ấy. Đến cuối tuần, cả hai bị sửng sốt vì những gì đã xảy ra. Họ nói: “Tất cả những người mà chúng tôi xem là vô vọng đã bắt đầu tham gia sinh hoạt phụng tự đầy đủ và đã trở nên những con người hoàn toàn mới.”

Matje, một phụ nữ rất không bình thường, là thành viên duy nhất trong gia đình quan tâm đến đức tin Công Giáo. Hoàn toàn cởi mở đón nhận đức Kitô, cô đã lắng nghe và nội tâm hóa Lời Chúa. Ít lâu sau đó, cô tiết lộ cho tôi một điều cô đã hứa với Chúa: “Nếu con có thể thuyết phục gia đình con trở lại với Giáo Hội, con nguyện sẽ trở thành một nhà truyền giáo.”  Và cô ta đã thành công một cách kỳ diệu về cả hai phương diện ấy. Cô đã không chỉ đưa mẹ và em gái mình trở lại trong dịp tôi đến vùng đó lần đầu tiên, mà cô còn đưa cả bố và anh trai cô trở lại khi tôi đến đó lần thứ ba. Rồi ít lâu sau, cô trở thành một nhà thừa sai Benedictine rất đắc lực ở Tanzania. Nhiều năm sau, khi cả hai chúng tôi bị bệnh ung thư, chúng tôi gặp lại nhau ở Đức. Bất chấp tình trạng bệnh hoạn của mình  (cô đã chết vì chứng bệnh này ít lâu sau khi cô thăm tôi), niềm vui rạng rỡ của cô không bao giờ tắt. Đó quả là một tông đồ tuyệt vời.

Tại thị trấn kế bên, một người tị nạn và cũng là một giáo viên gốc ở Silesia - là người giúp đỡ tôi rất đắc lực - cũng đề cập đến những “trường hợp vô vọng” mà anh ta nghĩ là mọi nỗ lực đều vô ích. Thật cực kỳ khó để thuyết phục anh chấp nhận quan điểm mà tôi thường xuyên nhắc đến, đó là Đức Giêsu không bao giờ có thái độ kỳ thị đối với bất cứ ai. Khi chuyến viếng thăm của tôi kết thúc, anh kể cho tôi về trường hợp một phụ nữ Công Giáo - là mẹ của sáu đứa con - đã trở thành xì căng đan trong thị trấn. Phụ nữ này liên can đến hoạt động mại dâm với các quân nhân Mỹ. Kể xong câu chuyện, anh thốt lên: “Là một bậc vị vọng, cha không thể bước chân vào nhà của con mụ ấy!” Để nhắc anh nhớ rằng điều quan trọng là phải thực thi sứ mạng của Đức Giêsu, tôi trả lời: “Vì cả anh và tôi đều là những ‘bậc vị vọng’, chúng ta có thể cùng nhau viếng thăm chị ấy.” Khi chúng tôi bước vào nhà người đàn bà nói trên, chị đang có mặt với một phụ nữ khác cũng liên can đến mại dâm. Bực bội vì sự hiện diện của chúng tôi, chị phun ra xối xả những lời thô tục mà cả đời mình cho tới lúc đó tôi chưa bao giờ nghe. Anh bạn của tôi nói: “Đấy! Con đã không cảnh báo trước với cha rồi đó sao?” Tôi trả lời: “Có lẽ chúng ta đáng nhận những lời chửi bới của chị ấy, vì trong thâm tâm mình chúng ta đã xem thường chị ấy!” Chiều hôm đó, người phụ nữ kia trố mắt ngạc nhiên thấy tôi ghé thăm chị lần nữa – lúc này chị đang một mình với các con của chị - và tôi đã tỏ ra thân thiện với chị như thể chưa có chuyện gì xảy ra cả. Sau một cuộc chuyện gẫu ngắn, chị hứa sẽ đến tham dự việc cử hành phụng tự của chúng tôi hai lần, vì tôi đã đến thăm chị hai lần. Cuối cùng chị đã vượt xa khỏi sự ‘mặc cả’ ban đầu của mình để đi bộ năm dặm với những đứa con lớn của chị, đến tham dự với chúng tôi vào mọi buổi tối.

Một năm sau, khi tôi trở lại, người đàn ông giáo viên đã trở thành bạn và mạnh thường quân rất đắc lực của tôi ấy đã nói: “Cha thật có lý. Chị ấy đã trở thành một con người mới và các con cái chị ấy cũng đã thay đổi rất nhiều.” Đây quả là tin mừng lớn lao. Trước hết, người mẹ goá bụa này vốn bị khinh miệt do bởi ngôn từ thô tục của chị – thì ra, (thật trái ngược với điều chúng tôi nghĩ ban đầu) việc chị sử dụng ngôn từ đó không phải vì chị phản kháng chúng tôi nhưng đúng hơn bởi vì chị bị thất đoạt[1] nghiêm trọng. Thứ hai, nhiều người tốt đã giúp đỡ chị thoát ra khỏi tình cảnh khốn nạn và bước vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Và cuối cùng nhưng không kém quan trọng, người giáo viên mạnh thường quân của tôi nói trên đã trải qua một cuộc hoán cải trong tâm hồn, anh nhận hiểu từ kinh nghiệm này rằng – giống như Đức Giêsu – ơn gọi cốt yếu của anh là ưu tiên phục vụ cho những người bị xem là tội lỗi, những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Thật vậy, hoạt động truyền giáo là một nỗ lực ‘gây nhiễm’ trong đó nếu chúng ta muốn thể hiện sức mạnh yêu thương và cứu độ của Đức Kitô thì chúng ta không thể không nhúng tay chân mình vào sình lầy khốn nạn của con người. Hiện diện giữa những người cùng khổ nhất để phục vụ họ, đó là một con đường rất quan trọng để khám phá, đánh thức và nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo giữa những người nghèo cũng như giữa bao người khác nữa xung quanh.

Một đàng, theo cách hoạt động tông đồ của Giáo Hội sơ khai, chúng tôi đã cố gắng xây dựng những cộng đoàn đức tin mọi nơi mà chúng tôi tới. Nhưng đàng khác, trong khi các Kitô hữu đầu tiên không bao giờ rời một cộng đoàn nhỏ nào nếu cộng đoàn ấy chưa được cung cấp một thừa tác viên Thánh Thể, thì trái lại chúng tôi – do một truyền thống nào đó và do những qui định khắt khe của giáo luật – đã để tất cả những cộng đoàn ấy lại phía sau lưng mình trong tình trạng không có linh mục! Dù sao, đáng ghi nhận rằng ngay cả dù không có thánh lễ, ít nhất nhiệt tâm truyền giáo cũng đã phát triển tại những khu vực bần cùng ấy. Thực tế Chúa cũng ban cho tôi khả năng cổ võ các ơn gọi linh mục và tu sĩ suốt trong thời gian đó, song rõ ràng đấy không phải là tiêu điểm nhấn mạnh của tôi. Bởi điều quan trọng hơn trong bổn phận của linh mục, theo tôi, là giúp người giáo dân ý thức về ơn gọi Phép Rửa của họ – qua đó họ sẽ dấn thân thi hành sứ mạng của mình trong Giáo Hội và trong thế giới. Một trách nhiệm quan trọng không kém, đó là hợp tác với các tín hữu để biện phân các nhu cầu của thời đại, để khám phá ra những sứ vụ nào phù hợp nhất với họ, theo các khả năng riêng của họ, và cuối cùng để nâng đỡ họ trong những sứ vụ mà họ đã chọn lựa.

Sát cánh với các bệnh nhân

Năm 1977, hồi tôi cần một cuộc giải phẫu thứ hai cho căn bệnh ung thư của mình, tôi đã quyết định đến với một trong những bệnh viện nghèo nhất ở Colleferro (phía nam Rôma), nơi làm việc của vị bác sĩ giải phẫu đã phát hiện ra tình trạng ung thư của tôi. Vị bác sĩ này đã học một phương pháp mới ở Hoa Kỳ – chỉ có thể được áp dụng cho những người không hút thuốc. Trong tư cách là ứng viên đầu tiên của ông, tôi xem đây là một cơ hội tuyệt vời không chỉ cho chính mình mà còn để cho vị bác sĩ  này kiểm tra hiệu năng của kỹ thuật mới. Trong khi động lực riêng của tôi ở đây có thể không hoàn toàn có tính bác ái, tôi vẫn sung sướng được ở giữa những người nghèo, trở thành “một người trong chúng ta”.

Thật ra, về mặt kỹ thuật, bệnh viện này cũng là một bệnh viện hàng đầu - nhưng mặt khác, ở đây có nhiều người rất nghèo và mang trọng bệnh nhưng không có nhiều khả năng tài chánh. Hằng ngày, một nhóm thiện nguyện đến phục vụ các nhu cầu cần thiết cho các bệnh nhân mới. Họ tặng tôi một con dao, món quà đơn giản nhất. Cũng như với mọi người nghèo, họ mang đến cho tôi một bó hoa để làm cho căn phòng và tinh thần tôi được vui tươi phấn chấn hơn. Cả những bệnh nhân cũng niềm nở với tôi. Một phụ nữ đứng tuổi ở phòng bên cạnh ngày nào cũng sang thăm. Chị hát một bài hát rất hay. Một cách hóm hỉnh, chị nói: “Tôi điếc, còn cha thì câm. Chúng ta giống nhau.” Tôi suy ngẫm và nhận ra rằng những quà tặng của người nghèo, được diễn tả một cách ân cần và thân ái, thì thâm sâu hơn và quan trọng hơn bất cứ sự an ủi nào khác.

Vì hoàn toàn câm, tôi học cách giao tiếp thuần túy bằng cử chỉ và chữ viết. Khi giai đoạn khó khăn nhất của mình đã trôi qua, tôi rất ngạc nhiên thấy các y tá và các bệnh nhân đến với tôi để lãnh bí tích hoà giải. Từ kinh nghiệm này, tôi càng xác tín hơn rằng ngay cả trong tình trạng bệnh hoạn, người ta vẫn có thể vượt qua các rào chắn để đem lại niềm an ủi cho nhau.

Kinh nghiệm sống không có thanh quản của 15 năm qua – theo một nghĩa nào đó – là một ân huệ thật sự đối với tôi, bởi vì nó đem lại cho tôi nhiều cơ hội tuyệt vời để an ủi bệnh nhân, nhất là an ủi những người cùng cảnh ngộ với mình. Đó là những cơ hội mà tôi không thể có được nếu tôi không ở trong tình trạng ấy. Tôi nói như thế bởi vì khi bạn hoàn toàn khoẻ mạnh và bạn cố gắng an ủi khích lệ một bệnh nhân, rất có thể người bệnh sẽ trả lời: “Anh nói nghe có vẻ dễ dàng. Nhưng làm sao anh thực sự hiểu được hoàn cảnh của tôi?” Tôi tin rằng một linh mục nếu không bao giờ đau ốm hay không bao giờ bị những vấn đề thể lý giống như các bệnh nhân thì sẽ không thể hiểu được hay diễn tả được niềm đồng cảm chân thành sâu sắc như một linh mục ở trong hoàn cảnh của họ.

Từ đó đến nay, tôi ngày càng thấm thía hơn lời của Ngôn Sứ Isaia: “Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Này Ta chữa lành ngươi” (2V 20,5). Tôi cảm nhận được ý nghĩa thật thâm sâu trong những lời ấy bởi vì chính căn bệnh của tôi đã trở thành phương tiện kết hợp tôi với nỗi đau khổ của bao người khác; tôi có thể thực sự hiểu và chia sẻ lời cầu nguyện của họ, nước mắt của họ, niềm hy vọng được chữa trị của họ. Cũng vậy, chương hai Thư Do Thái nối kết những nỗi thống khổ của Đức Kitô một cách mật thiết với việc Ngài chia sẻ cảnh ngộ của tất cả chúng ta. Nghĩa là, Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô, huynh trưởng của chúng ta, nên hoàn hảo xuyên qua đau khổ. Tôi tin rằng tôi đã được đặc ân “biết” Đức Kitô này, người anh em tôi, người cùng chịu đau khổ và là người chữa trị của tất cả. Và tôi cũng nhận ra ý nghĩa của sứ vụ Ngài bằng những cách mà tôi có thể không bao giờ hiểu nếu như chính bản thân tôi không đau khổ sâu xa.

Trong trường học đau khổ, Đức Giêsu, người anh em của tất cả chúng ta, không chỉ học vâng phục những gì Thiên Chúa đòi hỏi, mà còn học thương xót một cách đặc biệt (Dt 5,8-9). Không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu của Ngài, Đức Giêsu dạy chúng ta: “Hãy thương xót, như Cha anh em là Đấng xót thương” (Lc 6,36). Ý nghĩa sâu xa nhất của hy tế Đức Kitô trên Thập Giá được hiểu như mang lấy gánh nặng tội lỗi của loài người (Dt 9,8), bằng cách chia sẻ khổ đau của người ta với lòng trắc ẩn vô hạn. Qua cuộc khổ nạn của Ngài, Đức Kitô đã trở thành bí tích tối thượng, trở thành người chuyển tải cao nhất lòng thương xót của Chúa Cha. Vì thế, không chỉ là thích hợp mà còn là cần thiết việc các linh mục cũng chịu đau khổ, và qua đau khổ các ngài trở thành cảm thông hơn với mọi người, nhất là với các bệnh nhân.

“Hãy chữa lành những người ốm đau!”  

Xuyên qua các thế kỷ, Giáo Hội đã dạy và đã thúc đẩy việc săn sóc y tế và mục vụ cho các bệnh nhân. Trên khắp thế giới, Giáo Hội đã xây dựng rất nhiều bệnh viện. Sự săn sóc đầy yêu thương đối với những người đau ốm đã là chứng tá hùng hồn của tình yêu nơi Giáo Hội. Thánh Vincent de Paul, vị linh mục thánh thiện và được thần hứng, vượt lên trên những cấm kỵ văn hóa của thời ấy, đã giải phóng năng lực của hàng ngàn nữ tu có lời khấn để họ phục vụ cho bệnh nhân. Sự săn sóc và sự hiện diện đầy yêu thương của những con người thánh thiện ấy – nam cũng như nữ – tự nó là một sức mạnh chữa trị.

Tuy nhiên, trong vài thế kỷ qua, một thái cực không lành mạnh đã phát triển trong đó việc rao giảng Tin Mừng bị tách rời khỏi sứ vụ chữa trị. Duờng như đã có hai cơ chế của Giáo Hội hoạt động song song nhau, một cho việc loan báo Tin Mừng và một cho việc chữa trị. Càng nghiêm trọng hơn nữa, đó là sự phổ biến của một nền luân lý đầy nguy hiểm và dễ gây tổn thương, lạc xa đức tin theo Thánh Kinh, như được đặc biệt ghi nhận vào thời sau Công Đồng Trindentinô. Những hiện tượng không lành mạnh này đã sinh ra nhiều chứng thần kinh loạn nghiêm trọng có nguồn gốc từ tâm lý và trí năng, đôi khi được coi là tình trạng thần kinh loạn và rối loạn tâm thần có nguồn gốc từ ... Giáo Hội!

Trái lại, cần phải khẳng định mạnh mẽ rằng một đức tin chân thực và một nền luân lý cắm rễ trong đức tin theo Tân Ước thì không bao giờ – trong bất luận trường hợp nào – là nguyên nhân của sự suy nhược tâm thần như thế. Đúng hơn, đức tin đích thực - được sống đúng đắn, được rao giảng và được làm chứng – luôn luôn là hiện thân của một sức mạnh chữa trị độc đáo.

Việc phát triển chiều kích chữa trị của đức tin và của luân lý Kitô giáo đã và vẫn còn là một mối quan tâm chính của tôi. Đức tin, trong toàn diện tính của nó, không thể bị giảm trừ đến chỉ còn là việc bám chặt vào một hệ thống các chân lý (niềm tin) được dạy bởi Giáo Hội. Một cách căn bản, đức tin - theo nghĩa chân thực và thâm sâu nhất của nó - là một mối quan hệ có tính chữa trị và có sức cứu độ với Thiên Chúa. Như vậy, một đức tin sống động phải thiết yếu quan tâm đến những mối quan hệ lành mạnh và có sức chữa trị cũng như phải quan tâm đến việc phát triển toàn diện các cơ cấu của sự sống. Trong công cuộc loan báo Tin Mừng, các linh mục và tất cả những ai nhận sứ vụ phục vụ người khác phải được hướng dẫn chu đáo và được đào tạo nội tâm cách kỹ lưỡng theo những viễn tượng này.

Cách đây khoảng 40 năm, khi tôi ở Rôma, có một phụ nữ trẻ, đang trong thời gian hoàn thành đợt thi tốt nghiệp ở đại học, bỗng trở nên cáu kỉnh, quạu quọ, hung hãn. Người ta khám phá ra rằng cô ta có một nhân cách tâm thần phân liệt (schizophrenic personality). Khi tôi lần đầu tiên gặp cô ta, con người Adam cũ trong tôi bỗng đùng đùng phẫn nộ, tôi tự hỏi: “Tại sao người ta luôn luôn đưa đến cho tôi những gánh nặng như thế này?  Người ta phải biết rằng lúc này tôi không thể làm được gì nhiều để giúp đỡ bất cứ ai chứ!” Tuy nhiên, ơn Chúa chạm đến trái tim tôi, và tôi hiểu rằng nơi người phụ nữ này, Đức Giêsu Kitô đang gặp tôi và trắc nghiệm sự nhận thức của tôi đối với Lời Ngài: “Những gì ngươi làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất của gia đình Ta đây là ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25, 40). Trong khoảnh khắc mạc khải ấy, tôi quyết định kính trọng, yêu thương người phụ nữ tội nghiệp kia. Cô đang là sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô đau khổ ngay tại cửa nhà tôi. Cảm nhận mình được yêu thương và tôn trọng, Lina sẵn sàng tín nhiệm và cộng tác với tôi. Dù vừa trải qua một phẫu thuật tâm lý (psychochirurgy) – vốn thường tàn phá mọi khả năng chủ động – Lina không bao giờ bỏ một cái hẹn nào, và trong những lần gặp nhau sau đó, cô đã biết nhìn tôi bằng ánh mắt hiền từ, trìu mến.

Mặc dù không có bằng cấp nào về tâm lý trị liệu, nhưng tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của các nhà trị liệu nổi tiếng của thế kỷ này và tôi đã chú ý nhiều đến những trường phái trị liệu nhấn mạnh đến các mối quan hệ có tính chữa trị. Loại liệu pháp này chỉ thực sự có hiệu năng tùy theo mức độ người ta có lòng kính trọng thâm sâu và bền vững đối với người bệnh. Nhưng như thế cũng chưa đủ. Bên cạnh việc học hỏi và thực hành những gì thuộc chuyên môn của một nhà trị liệu tâm lý, cũng cần phải triển khai sứ mạng của Đức Kitô như được ủy thác cho chúng ta và các hệ quả của sứ mạng đó: “Hãy loan báo Tin Mừng rằng Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa lành những người đau yếu, ... băng bó những kẻ cùi hủi” (Mt 10, 7-8; Lc 10,9). 

Đành rằng học kỹ thuật là điều rất quan trọng, nhưng sứ mạng chữa trị còn liên can đến rất nhiều chuyện khác nữa. Người linh mục phải cởi mở mình ra tới những chiều sâu của đức tin, và với một tâm hồn đầy tràn lòng biết ơn và niềm vui, người linh mục hoàn toàn phó thác chính mình trong bàn tay Thiên Chúa. Đặc biệt, tâm tình biết ơn sẽ là chìa khóa mở toang lòng trí người ta để họ đón nhận quà tặng tình yêu đầy năng lực chữa trị và giải phóng của Thiên Chúa. Như vậy, tiên vàn không phải là tôi phải làm gì – mà một cách căn bản hơn, đó là tôi phải là gì và tôi phải đem cái gì tới cho mối quan hệ của tôi với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Chỉ khi biết mở rộng lòng mình ra đón nhận phúc ân và an bình tràn ngập của Thiên Chúa thì người linh mục mới có thể đem lại sức chữa trị cho người anh em bên cạnh, nhất là cho những ai bệnh hoạn thể lý hay tâm thần. Điều này khác hẳn với hình ảnh ‘bác ái’ của người linh mục ở xa xa bệnh nhân -và từ trên cao nhìn xuống, ban phát cho người ta ánh mắt thương hại!

Sự cứu chuộc, sự lành mạnh và sự chữa trị được đóng dấu sâu sắc bởi điều mà thần học gọi là ơn dự phòng (gratia praeveniens). Khi giải thích điều này cho chính mình và cho người khác, tôi so sánh nó với một món quà ân sủng được ban cho trước. Chẳng hạn, chính Thiên Chúa luôn luôn có sáng kiến tín nhiệm và yêu thương chúng ta trước - dù chúng ta là ai, dù chúng ta nói gì và làm gì. Các linh mục và các thừa tác viên săn sóc bệnh nhân có thể đi vào trọn vẹn trong nhiệm cục cứu độ này theo mức độ mà – để tôn vinh Thiên Chúa – họ luôn luôn bày tỏ cho người anh em mình, ngay cả những người thù địch nhất, một sự tín nhiệm trước và vô điều kiện chảy ra từ thiện chí. Nghệ thuật cung ứng sự khích lệ trước được ghi nhận ở cốt tủy của Paraklesis trong Thánh Kinh, đó là sự khích lệ tuôn chảy từ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Những bạn trẻ thường xuyên bị đánh giá thấp, bị lăng nhục, bị trách mắng bởi cha mẹ và bởi các nhà giáo dục của mình sẽ vô tình đi đến chỗ tự xem mình là vô giá trị. Khi người ta “dis-ease”[1] với chính mình trong thời niên thiếu, lớn lên người ta sẽ đi đến chỗ bại xụi, yếu nhược, què quặt, trở thành những bệnh nhân phung cùi thời hiện đại. Ngược lại, những cha mẹ và nhà giáo biết sống trọn vẹn vai trò Paraklesis và biết khôn ngoan đặt sự tín nhiệm trước nơi con cái, thì họ sẽ có khả năng làm những phép lạ – theo nghĩa đích thực của Thánh Kinh – có sức chữa trị các quả tim và các mối quan hệ căn bản nhất. Hơn nữa, trên chính nền tảng ấy, đôi khi họ có thể chữa lành cả các chứng bệnh thực tế nữa. Đây là những nhà chữa trị thực sự có năng lực sáng tạo.

Trong tư cách là linh mục, chúng ta đừng bao giờ gán bất cứ loại sức mạnh kỳ diệu nào cho chính chúng ta viện lẽ rằng nhờ được truyền chức thánh. Chúng ta chẳng có gì kỳ diệu hay thần nhiệm cả đâu! Đàng khác, Thiên Chúa thực hiện những việc trọng đại nơi và qua những người – như Đức Maria – biết ca ngợi và vững tâm tín thác vào Ngài. Đúng theo ơn gọi của mình, không hơn không kém, chúng ta là những cộng tác viên bé nhỏ của Thiên Chúa, những kẻ mở rộng lòng mình đón nhận ơn Chúa để đem lại sự chữa trị trong mọi mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, với tha nhân và với toàn thể tạo vật. Luôn luôn tiên vàn chúng ta phải nhận thức rằng cả chính chúng ta nữa cũng là những kẻ luôn luôn cần được chữa trị - cả chúng ta nữa cũng không ngừng cần đến tình yêu và sự hiện diện đầy khích lệ trước của Thiên Chúa. Xét cho cùng, chúng ta cũng chỉ là những nhà chữa trị mang đầy thương tích mà thôi. Trong mức độ mà chúng ta biết mau mắn khích lệ và tín nhiệm người khác, thì sự tín nhiệm và khích lệ này sẽ chảy ngược về với chúng ta – hóa thành năng lực chữa trị và củng cố.

Cuối cùng, không chỉ một mình các Kitô hữu, các tông đồ giáo dân hay các linh mục, được mời gọi và được sai đi trong sứ vụ chữa trị. Nói theo ngôn ngữ của Cha Teilhard de Chardin thì chính “Cảnh Vực Thần Linh” là nguồn mạch trước hết từ đó mọi năng lực chữa trị chảy ra và lan tỏa. Nhận thức quan trọng này, do đó, buộc chúng ta phải tìm kiếm những mối quan hệ lành mạnh và những cơ cấu lành mạnh ở khắp nơi, bên trong và bên ngoài Giáo Hội. Vả chăng, nhãn quan này không phát xuất từ sứ mạng nền tảng của chúng ta là loan báo Tin Mừng và chữa lành những người đau yếu một cách toàn diện đó sao?

Vai trò chữa trị của thần học luân lý và của việc giảng dạy luân lý

Phải dần dần tôi mới khám phá được rằng thần học luân lý và, tổng quát hơn, sư phạm luân lý có những chiều kích chữa trị và tác động rất đáng kể. Một trong những trách nhiệm quan trọng nhất là giúp cho Giáo Hội, nhất là các linh mục, ngày càng trở nên những tấm gương mẫu mực hơn, những biểu tượng sống động hơn của vị Thầy Thuốc vĩ đại là Đức Giêsu Kitô – bằng việc sống triệt để Tin Mừng về sự chữa trị. Đành rằng các linh mục không giữ độc quyền về sứ mạng chữa trị và mạc khải của Giáo Hội, tuy nhiên họ có thể phục vụ tốt nhất cho dân Thiên Chúa trong việc tiên phong sống sứ mạng chữa trị một cách nhất quán, trong xây dựng cộng đoàn, trong rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.

Người ta luôn luôn choáng váng khi nhận thấy một nền luân lý sách nhiễu - gây ra bệnh hoạn, phẫn nộ, xét nét và gây hấn - trong Giáo Hội. Nếu có tồn tại những tâm bệnh có nguồn gốc từ Giáo Hội gây phiền hà cho hầu như mọi mối quan hệ chủ yếu với Thiên Chúa, với bản thân và với tha nhân, thì cần phải có một nỗ lực phối hợp để điều nghiên và sửa chữa tất cả những qui phạm của thần học, nhất là thần học luân lý – vốn không tổng hợp và hội nhập được hai chiều kích chữa trị và mạc khải. Đương nhiên công việc này cũng cần đến một cuộc cải cách các cơ cấu Giáo Hội có tính đàn áp, chẳng hạn những cơ cấu hậu thuẫn cho chủ trương tập quyền đầy quan liêu và cho một quan điểm độc đoán về vai trò lãnh đạo ở mọi cấp độ. Trong nỗ lực này, khởi điểm của cuộc cải cách phải luôn luôn là những cố gắng hợp tác của chúng ta để hiểu biết thấu đáo Đức Kitô là Đấng Chữa Trị, là Ngôn Sứ và là hình ảnh Nhập Thể của Đấng Sáng Tạo.

Nhiều người Công Giáo đã được đánh thức bởi nhận định kịp thời và thích đáng của Karl Rahner rằng: Giáo Hội trước Công Đồng, thật đáng tiếc, đã gán là tội trọng (mortal sin) cho vô số chuyện vặt vãnh và vớ vẩn. Trong tư cách là một nhà thần học luân lý trẻ, tôi có lần giảng tĩnh tâm ở Tyrol cho một trăm linh mục. Trong phần dẫn nhập, tôi nói: “Thưa các cha, tôi không có ý giảng về một danh mục các tội trọng.” Một linh mục hạt trưởng cao niên lập tức công khai phản ứng lại: “Nhưng như vậy là không thực tế! Làm sao chúng ta là những linh mục tránh được khả năng phạm tội trọng trong liên quan đến những luật chữ đỏ?” Quan điểm của vị linh mục này phát xuất từ thủ bản Noldin cũ kỹ, trong đó vạch ra vô số qui định về nghi thức mà các linh mục buộc phải tuân hành “nếu không thì mắc tội trọng”. Chẳng hạn, cho đến năm 1949, Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích của Vatican còn tuyên bố rằng một phụ nữ hay nữ tu mà trong Thánh Lễ tới gần bàn thờ vượt quá lan can cung thánh là mắc tội trọng. Khoảng ba mươi năm sau, có lần tôi vẫn còn đụng chạm với một hồng y kiên quyết bảo vệ một luật của Giáo Hội buộc trẻ em trên bảy tuổi phải xưng tội lần đầu trước khi rước lễ lần đầu, vì người ta giả định rằng trẻ em ở tuổi này có khả năng phạm tội trọng.

Kinh nghiệm ấy nhắc tôi nhớ lại thật rõ những nỗi kinh hoàng thuở ấu thời của mình với vị cha sở khư khư đòi chúng tôi xưng thú mọi tội trọng, đe doạ rằng chúng tôi sẽ bị đốt trong lửa và diêm sinh nếu như chúng tôi xưng thú không đầy đủ! Người ta trình bày cho trẻ em – chưa nói là cho người lớn - một khuôn mặt Thiên Chúa kỳ dị biết bao! Rất may là cả lúc đó lẫn bây giờ tôi vẫn không chia sẻ tư tưởng bi quan của Eugen Drewermann. Nhưng ngay cả trong thời đại hiện nay, quyền bính Giáo Hội ở mọi cấp vẫn cần phải quan tâm đến những cảnh báo nghiêm túc của các nhà trị liệu tâm lý có nhiệt tâm và giàu hiểu biết khi họ cảnh giác chúng ta về các chứng bệnh có nguồn gốc từ Giáo Hội, những chứng bệnh có thể phát xuất từ một cái nhìn tiêu cực, sai trái và hà khắc.

Một điều nhấn mạnh mấy cũng không vừa, đó là giáo huấn của Giáo Hội và việc thực  hành mục vụ - trong quan hệ với mọi chiều kích và mọi cơ cấu của đời sống - phải được giải phóng khỏi một nền luân lý cứng nhắc và phải được định hình lại trong viễn tượng một tổng hợp vững chắc và có tính nhân văn của hai sứ vụ rao giảng và chữa trị. Hơn nữa, tổng hợp này phải đặc điểm hoá việc huấn luyện và đời sống linh mục. Trong khi từ đầu, tôi là một người ủng hộ mạnh mẽ thần học giải phóng, tôi vẫn khẳng định mạnh mẽ sự cần thiết phải bao gồm chiều kích giải phóng và chữa trị trong mọi qui phạm thần học.

Quan tâm mục vụ đối với những người li dị

Mối quan tâm của tôi đối với những người li dị không phải là kết quả của các nghiên cứu lý thuyết – mặc dù tôi vẫn nhìn nhận công việc nghiên cứu có vai trò rất quan trọng. Đúng hơn, mối quan tâm này của tôi phát xuất từ hai nguồn: một là, từ tình thương và niềm kính trọng của Đức Giêsu đối với những con người đứng bên lề cuộc sống, những người bị coi là hư hỏng - và hai là, từ vô số các kinh nghiệm của bản thân tôi với những người li dị.

Nỗi thất vọng cùng cực và nỗi khổ đau tâm cảm của quá nhiều người li dị thiết tưởng cũng đã đủ lý do không chỉ để thúc đẩy niềm cảm thông nơi các linh mục mà còn để dẫn Giáo Hội tới một cách suy nghĩ mới. Gần như ở khắp những nơi trên thế giới mà tôi đã đi qua, các bạn tôi – nhất là những tu sĩ nam nữ – đã giới thiệu những người li dị đến gặp tôi, hoặc đã bày tỏ với tôi những nỗi quan tâm của họ đối với những người li dị mà họ quen biết. Tôi nhớ có lần, một giám mục Phi Châu giới thiệu chính em trai của ngài, một người li dị, đến gặp tôi. Giám mục nói với người em mình: “Chú hãy làm theo những gì Cha Haring khuyên chú làm!”

Những nỗi khổ đau cùng cực của những người li dị – thường đa số họ là những người rất đáng nể phục – luôn luôn làm tôi trằn trọc và suy nghĩ về những Lời này của Đức Kitô: “Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). 

Tôi cảm kích sâu xa trước tấm lòng của Đức Giêsu đối với người phụ nữ Samaria – người phụ nữ mong muốn có được một đời sống nghiêm túc, nhưng đã bị khước từ bởi năm người đàn ông. Trong truyền thống Do Thái lúc bấy giờ, một “người đàng hoàng” sẽ không bao giờ tiếp xúc với một phụ nữ như thế. Đức Giêsu đã không chỉ khôi phục lại lòng tự trọng và phẩm giá cho chị mà, hơn thế nữa, Ngài đặt chị làm một tông đồ của Ngài. Trong tư cách là một môn đệ Đức Giêsu, tôi không thể nghĩ đến những con người khốn khổ ấy mà không đồng thời nghe âm vang Lời Đức Giêsu: “Tôi đến không phải để xét xử, nhưng là để chữa trị” (x. Ga 3,17; Lc 19,10).

Trong đa số các trường hợp li dị mà mình tiếp xúc, tôi cảm nhận đó là một nỗi mất mát và nỗi đau bi thảm hơn là một tội. Từ kinh nghiệm và suy tư của chính mình, tôi ngày càng xác tín rằng phương thức oikonomia của Giáo Hội Chính Thống phù hợp với Thánh Kinh hơn so với hữu thể luận (ontologism) đầy tính pháp lý của giáo thuyết Công Giáo hiện đại. Tôi cho rằng chúng ta nên liều chấp nhận khổ sở (khổ sở do bị hiểu lầm và khổ sở do bị chỉ trích) để dám suy nghĩ lại và định hình lại việc săn sóc mục vụ nhằm giúp chữa trị những con người khốn nạn và mang đầy thương tích này. Trong tư cách là các thừa tác viên của Đức Kitô đối với dân Ngài, phải chăng chúng ta không thể hình dung rằng Đức Giêsu đã viết tên của chúng ta – tên bạn và tên tôi – trên đất và nói: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị ấy trước đi!” (Ga 8,7-8)? Xin mở ngoặc để nói thêm ở đây: nhiều người li dị đến gặp tôi không thể bị gọi là những kẻ ngoại tình – theo bất cứ nghĩa nào!

Người linh mục đích thực không phải là một quan tòa cũng không phải là một robot bị đóng hộp trong những phạm trù phán quyết quá đơn giản. Phần mình, thú thực tôi rất xấu hổ nếu cảm thấy mình hơi thoáng nghiêng về ý nghĩ rằng những người li dị và tái hôn là những người “đang sống trong tình trạng tội trọng một cách khách quan” sau khi họ đã chịu đựng quá nhiều nỗi khổ đau và ô nhục trong biến cố gãy đổ hoàn toàn cuộc hôn nhân thứ nhất của mình.

Săn sóc một cách chữa trị cho những người li dị, đó cũng là một trắc nghiệm đo lường quyết tâm đại kết của Giáo Hội. Các Kitôhữu Chính Thống và nhiều Kitôhữu thuộc các giáo hội Cải Cách khác rất choáng váng trước sự khắc nghiệt của những giám mục và linh mục Công Giáo cố khư khư bám vào một hữu thể luận nặng tính pháp lý lỗi thời để cắt xén, bóp méo hoặc thay thế hoàn toàn nhãn quan của Thánh Kinh về tính bất khả phân ly bằng lối suy nghĩ và kiểm soát quá đơn giản hóa và quá nhũng nhiễu của họ.  

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
CHÀNG THANH NIÊN GIÀU CÓ

 

Nguyên Tác IN STEP WITH GOD LM Vincent Travers, OP HƯƠNG VĨNH chuyển ngữ

Chàng Linus nói với vợ: “Cuộc đời lạ thật! Em có thích ngược dòng thời gian và sống lại từ đầu, nếu em biết được những điều như em đang biết hiện nay không?” Nàng Lucy không thấy cảm kích chút nào. Nàng nhìn chồng chòng chọc và nói: “Bây giờ anh biết được gì?” 

Đó là một câu hỏi thật hay! Chúng ta biết được gì đây, sau hai mươi năm, bốn mươi năm, sáu mươi năm cuộc đời? Chúng ta đã học hỏi được gì do kinh nghiệm mà ra? Nếu chúng ta đã học được từ kinh nghiệm, có lẽ chúng ta đã không thường xuyên phạm đi phạm lại những lỗi lầm đó. Thiết tưởng phần đông chúng ta cũng giống như chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm Thánh Mác-cô (10, 17-22): 

Chúa Giêsu vừa lên đường thì có một người chạy đến, quì xuống trước mặt Người và hỏi: ‘Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?’ Chúa Giêsu đáp: ‘Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: ‘Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.

Anh ta nói: ‘Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.’ Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: ‘Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.

Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.” 

***

Chúng ta đã dần dà học được là sống bằng luật lệ và tuân giữ các giới răn thật có ý nghĩa: đừng nói dối, đừng gian lận, đừng trộm cắp, đừng giết người. Chúng ta cũng học được là sống ngược lại với luật lệ đưa đến tình trạng hỗn loạn và rối ren. Khi không tín nhiệm ai hết, người ta phải luôn thận trọng, canh chừng, không bao giờ lơ là đưọc. Nếp sống đó thật là một cơn ác mộng và không đáng sống.

Sống theo cách của tôi 

Hầu như thật khó khăn đối với chúng ta để luôn luôn sống theo luật lệ và tuân giữ các giới răn. Khi chúng ta thành công thì mọi người được lợi. Sống theo luật lệ là một bước tiến lớn lao để đi đúng đường, nhưng như Chúa Giêsu đã vạch rõ cho người thanh niên thấy là sống không gây rối, giữ mình sạch sẽ, tuân giữ các giới răn, rõ ràng chưa đủ. Điều đó không đưa ta đến cốt lõi cuộc sống, chỉ đưa ta tới ngưỡng cửa, nhưng chưa vào được bên trong ngôi nhà. Chính ở bên trong ngôi nhà là nơi chúng ta phải tới. Cuộc sống không có nghĩa là phải sống ở nơi ngưỡng cửa.

Chàng thanh niên xem ra đã thành công. Chàng đã đạt đuợc điều đó. Chàng là “món hàng đắt giá”, như ở Bắc Mỹ người ta thường nói. Dù chàng giàu có, nhưng khi nhìn thấu suốt bên trong, chàng nhận thấy trong cuộc sống còn có điều gì cao quí hơn tiền bạc. Chàng đã hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Chàng đã hỏi đúng người. Chúa Giêsu cũng đồng ý như thế. Chàng đã thiếu sót điều căn bản ở trong cuộc sống. Ở điểm đó, Chúa Giêsu và chàng thanh niên đang cùng đọc một trang sách, đang cùng hát chung một bản nhạc.

Cội rễ mọi sự dữ 

Trừ phi chúng ta thấy người thanh niên đó thật quảng đại, nếu không, chúng ta đã đánh mất tâm điểm của câu chuyện. Chàng thật sự đã tuân giữ mọi lề luật suốt cuộc đời chàng “từ lúc tấm bé”, như chàng đã thưa với Chúa Giêsu. Ai trong chúng ta có thể nói được như vậy?

Nhưng chàng cảm thấy thất vọng tột độ khi nghe Chúa Giêsu nói với chàng: Bạn đang có vấn đề. Vấn đề của bạn là “tiền bạc”. Tiền bạc của bạn đã cản trở bạn trên con đường đi đến sự sống vĩnh cửu. Nếu bạn muốn trở thành đệ tử của tôi “bạn hãy bán hết những gì bạn có, bố thí cho người nghèo khó và theo tôi”.  

Khi người thanh niên nghe những lời đó, chàng cảm thấy choáng váng. “Bán hết mọi tài sản?” Chúng ta có thể tưởng tượng chàng đang hỏi Chúa như thế trong sự ngỡ ngàng tột độ. “Thầy không nói giỡn chứ?” Chẳng ngạc nhiên chút nào, chàng đã sa sầm nét mặt. 

Ngã rẽ cuộc đời 

Chúa Giêsu đang thử thách chàng thanh niên đó. Bất chợt chàng cảm thấy mình đứng trước ngã rẽ cuộc đời. Đối với người Hy-lạp, “thời gian khủng hoảng là thời gian của vận hội mới”. Người ta im hơi lặng tiếng khi đứng trước ngã rẽ cuộc đời. Ở đó đang diễn ra tấm thảm kịch của sự do dự. Chàng thanh niên đang đắn đo.

Ở đây sự lựa chọn không phải giữa tốt và xấu. Đó là sự “lựa chọn giữa tốt và tốt hơn”, giữa con đường đang được nhiều người đi qua hay ít người đi; giữa cuộc sống nơi ngưỡng cửa hay ở trong ngôi nhà. Sự lựa chọn tùy thuộc ở chàng. Không quyết định cũng là một sự quyết định rồi.

Chàng chỉ thưa: Không. Chàng đã lặng lẽ ra đi một cách buồn bã. Còn bạn thì sao? … Nhưng Phúc Âm ghi lại việc ra đi của chàng thanh niên như một vận hội mới đã bị đánh mất trong cuộc đời chàng. Giả như chàng đã ở lại, bán hết tài sản và theo Chúa Giêsu, tôi có cảm tưởng là nhiều người – trong đó có gia đình, bạn bè và những đồng nghiệp – có thể đã cho chàng là “mát dây”, bị rơi vào đường cùng và gàn gàn dở dở!

Ai là chàng thanh niên đó? Theo Thánh kinh mà nói, chàng thanh niên đó đại diện cho bạn và tôi. Và thật hữu ích bạn nên tin tưởng như thế! Chàng đã có vấn đề. Chàng là người “mê tiền”. Có thể tiền bạc không phải là vấn đề đối với bạn và tôi. Nhưng câu hỏi của chàng thanh niên, “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” là một câu hỏi đang vang động trong bối cảnh cuộc sống chúng ta.

Ngày nay, đến lượt chúng ta đang đứng trước ngã rẽ cuộc đời. Chúng ta cũng la lên lớn tiếng: “Lạy Chúa, con phải làm gì đây?” Và Ngài trả lời: “Hãy đánh rơi bất cứ điều gì ngăn cách con với Ta.” Đối với hầu hết chúng ta, “sự lựa chọn không phải giữa tốt và xấu, nhưng là giữa tốt và tốt hơn”. Đó là sự lựa chọn giữa ai muốn trở thành triệu phú và ai muốn trở nên môn đệ Chúa Giêsu?

Cuộc sống có ý nghĩa  

Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II đã ngỏ lời với hơn hai triệu bạn trẻ đang đứng trước ngã rẽ cuộc đời, ở kinh thành Roma, ngày 19 tháng 8 năm 2000. Trích dẫn lời nữ thánh Catherine thành Siena, Ngài nói: “Nếu các bạn trở nên những người mà các bạn phải trưởng thành như thế thì các bạn đã nổi lửa cho đời rồi.” Ba trăm ngàn thanh thiếu niên đã đi xưng tội cuối tuần đó. Họ đã xưng tội và đã nhận lãnh bí tích hòa giải.

Sự thách đố của Chúa Giêsu quật ngã chúng ta nhiều cách. Lời mời gọi đạt tới sự sống vĩnh cửu là một lời mời gọi đối với một linh đạo sâu sắc hơn, giúp chúng ta ra khỏi vết lún mà chúng ta đã sa vào, giúp chúng ta lội ngược dòng những dư luận quần chúng. Đó là một sự mời gọi trở nên cao quí hơn trong những mối tương quan với bạn bè và trong những giao dịch làm ăn. Trên tất cả, đó là một lời mời gọi trở nên chứng tá thầm lặng đối với Tin Mừng.

Tôi vừa nhận được một cú điện thoại của một giáo dân thuộc giáo xứ cũ của tôi ở Vancouver BC Canada. Anh là nhân viên xã hội. Anh nói về chị Cathy. Chị bị rơi xuống vực thẳm. Rồi chị đã gặp được người bạn của tôi và sự hiện diện của anh đã giúp đỡ chị rất nhiều. Không những chị cảm nhận sự hiện diện của anh mà còn sự hiện diện của Chúa nữa, bởi vì theo lời chị, Chúa đã gởi anh ta đến với chị. Anh đang là một chứng tá thầm lặng của Tin Mừng mà anh không hay biết. 

Hôm nay và mỗi ngày, chúng ta đang đứng trước ngã rẽ cuộc đời. Chúa đang gặp gỡ chúng ta ở đó và đang mời gọi chúng ta. Nếu chúng ta đồng hành với Ngài, tôi cam đoan là những người thân cận với bạn không lấy làm cảm kích chút nào. Lập trường mà bạn chọn lựa có thể khiến họ lắc đầu, chán ngán và nói: “Bạn mất trí rồi”, “Bạn điên rồ rồi!

Mặc cho người khác nói gì, nghĩ gì. Cuối cùng, điều can hệ là những gì bạn nghĩ tưởng và những gì Chúa nghĩ tưởng, bởi vì Chúa và bạn đã liên kết vững mạnh và keo sơn.

VỀ MỤC LỤC

  NÓI VỚI EM BÉ BÁN RONG BÁNH VÀ CÁ (Ga 6,9)

 

Chiều đã xuống hoàng hôn

Thì thào gió thổi lạnh

Hỡi em bé bán bánh

Sao em chưa về thôn?

Cha mẹ đang nóng lòng đợi em từng giây phút

                   *        *

                        *

Hỡi em bé bán bánh rong

Nhà em hẳn nghèo lắm

Cha mẹ em chẳng có “bát ăn bát để” gì

Nên mới cho em đi bán  bánh rong độ nhật

Không có tiền cho em ăn học

Em mù chữ chắc rồi!

Em gầy như chiếc lá khô

Luồn lách giữa đám đông

Đang mải mê nghe lời Chúa.

 

Em lớn tiếng rao: “Này ai mua bánh”

Bánh hiệu Caphác

Để ăn lễ Vượt Qua.

Bỗng  ông Phêrô

Nắm tay em lại

Lấy gọn năm chiếc bánh và hai con cá còn dư

Ông Phêrô đem cả về cho Chúa.

 

Này em bé,

Tôi hỏi nhỏ em:

Ông Phêrô có mặc cả với em không?

Và ông trả đủ tiền bánh chưa?

 

Và rồi, khi ông Phêrô trao bánh và cá cho Chúa.

Liệu Chúa có trách ông:

Sao không dẫn em lại đây cho Thầy?

 

Này em bé, tôi mách nhỏ em:

Chúa là người rất tinh tế và nhạy cảm.

Khi Chúa cho con gái ông Gia-ia sống lại,

Lúc mọi người đang vô cùng kinh ngạc

Chỉ có Chúa mới biết đứa bé này trong bụng chưa có gì.

Nên Ngài bảo: Hãy cho con bé ăn. (Mc 5,23).

 

Cũng vậy, khi Chúa cho Lagiarô sống lại,

Người Do Thái đang thán phục đến kinh hoàng

Chúa nhìn Lagiarô quấn vải quanh mình không cựa quậy được.

Chúa bảo ngay:

Hãy cởi dây cho anh ấy đi. (Ga 11,44).

 

Chưa hết đâu,

Em nhớ không?

Chiều nay, sau khi được Chúa cho ăn no, đám đông tranh nhau ra về.

Chúa nhìn bãi cỏ xanh,

Còn vương vãi bao nhiêu là bánh vụn.

Chúa bảo: Hãy thu lại những mảnh bánh thừa kẻo phí đi (Ga 6,12).

 

Đó, em thấy không?

Chúa có cái nhìn và trái tim khác mọi người.

 

Tối hôm nay, em về nhà,

Hẳn em không quên mách cha mẹ biết chuyện xảy ra ban chiều,

Và em đề nghị cha mẹ tìm dịp để được gặp Chúa Giêsu./.

 

Xuân Ly Băng

Ngày 11.5.2007

VỀ MỤC LỤC

 VẤN ĐỀ GHI DANH và DÂNG CÚNG TIỀN CHO NHÀ THỜ

 

Hỏi: xin cha giải thích giúp các câu hỏi sau đây :

1-  Thế  nào là Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ và  Giáo Hội địa phương ?

2-  Có buộc phải ghi tên nhập giáo xứ và dùng phong bì dâng cúng tiền thì mới được lãnh các bí tích và cho con em học giáo lý không ?

Trả lời:

1- Chỉ có một Giáo Hội duy nhất do Chúa Giêsu thiết lập trên nền tảng các Thánh Tông Đồ, và “ Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với Ngài điều khiển” (x. Lumen Gentium, số 8).

Vậy,  khi nói đến Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ (Universal Catholic Church) là nói đến toàn thể Cơ cấu này mà người đứng đầu cai trị là Đức Giáo Hoàng La Mã, Vị Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trên trần gian, là Thủ Lãnh Giám Mục Đoàn ( College of Bishops ) và cũng là Giám Mục Rôma.

Hiệp thông với Đức Giáo Hoàng trong đức tin, sứ vụ (ministry) và vâng phục là các Giám mục trong toàn Giáo Hội. Các Giám Mục là những người kế vị các Thánh Tông Đồ trong sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô trong các Giáo Hội địa phương hay còn gọi là các Địa Phận hay Giáo Phận ( Diocese).

Nói rõ hơn, mỗi Địa phận ở mỗi quốc gia là một Giáo Hội địa phương (local Church)  đặt dưới quyền coi sóc của một Giám Mục do Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm.

Tất cả các Giáo phận trong một quốc gia lại hợp thành Giáo Hội địa phương của quốc gia ấy trong tương quan với Giáo Hội hoàn vũ. Thí dụ, chúng ta có Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, Giáo Hội Công Giáo ViệtNam v.v  .Trong mỗi Địa phận lại có nhiều  Giáo xứ (Parish) tức những giáo hội nhỏ trong một Giáo Hội địa phương lớn là Giáo Phận. Cha xứ (Pastor) là người được Giám mục địa phương bổ nhiệm để coi sóc một giáo xứ.  Tất cả các giáo hội địa phương lớn nhỏ đều hiệp thông và hợp lại thành Giáo Hội hoàn vũ (Universal Church) dưới quyền coi sóc, lãnh đạo của Đức Thánh Cha, Đấng kế vị Thánh Phêrô trong sứ mệnh “ chăn dắt các chiên con , chiên mẹ của Thầy” ( x. Ga 21: 15-17)

Đó là tất cả cơ cấu tổ chức, điều hành và danh xưng được sử dụng trong Giáo Hội Công Giáo cho đến nay. 

2- Việc ghi tên gia nhập Giáo xứ và nghĩa vụ đóng góp tài chính, tiền dâng cúng..

Để tiện việc chăm sóc thiêng liêng hay mục vụ cho giáo dân, mỗi Địa Phận có nhiều Giáo xứ như đã nói trên đây. Và cũng để giúp cho sứ vụ mục vụ này được dễ dàng và hữu hiệu, giáo dân khắp nơi được kêu gọi và khuyến khích ghi tên gia nhập một giáo xứ nới mình cư ngụ hay thuận tiện về ngôn ngữ, nghi thức phụng vụ.

Cụ thể, theo giáo luật số 518, giáo dân có thể gia nhập một giáo xứ (parish) vì cự ngụ trong địa hạt hay ranh giới thuộc về giáo xứ đó ( tòng thổ) hay trong một giáo xứ thuận tiện cho mình về phương diện lễ nghi phụng vụ hay ngôn ngữ thích hợp (tòng nhân). Cụ thể, người Công giáo ViệtNam ở Mỹ có thể ghi tên gia nhập một giáo xứ Mỹ nơi có Thánh lễ bằng tiếng Việt, hoặc có lớp dạy giáo lý và Việt ngữ,  mặc dù không cư ngụ trong lãnh thổ của giáo xứ này.( can. no.518). Việc ghi tên gia nhập này (Registration) rất cần thiết để lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích rửa tội, thêm sức  và hôn phối vì các sự kiện này phải được lưu trữ cẩn thận trong sổ sách của giáo xứ theo giáo luật qui định. ( Cans nos. 877, 895,1121).

Hơn thế nữa, việc gia nhập một giáo xứ nói lên tinh thần và trách nhiệm cộng tác của giaó dân với hàng giáo sĩ, cụ thể là cha xứ và các cha phó trông coi một giáo xứ. Mặt khác, việc giáo dân cam kết tham gia sinh hoạt của giáo xứ thể hiện qua việc ghi tên gia nhập cũng giúp cho việc thi hành trách nhiệm  mục vụ của cha xứ  được cụ thể  hơn qua mối  giây liên hệ thực tế giữa chủ chiên và đoàn chiên đặt dưới quyền  chăm sóc mục vụ của mình (pastoral care)

Hơn thế nữa, Giáo dân có bổn phận tham gia và công tác với giáo sĩ trong tinh thần thi hành  chức vụ tư tế vương giả mà mình đã lãnh nhận qua phép rửa, nhờ đó giáo dân “  thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống chứng nhân thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực.”(x.Lumen Gentium, số 10)

Chính trong tinh thần cộng tác và thực thi bác ái tích cực này mà giáo dân trước hết có bổn phận đóng góp tài chính để giúp giáo xứ, giáo phận có phương tiện hoạt động và phục vụ hữu hiệu.  Câu nói “có thực mới vực được đạo” được áp dụng đúng đắn vào trường hợp này. Cụ thể, ở Tổng Giáo Phận Galveston-Houston, hàng năm giáo dân trong toàn giáo phận được kêu gọi đóng góp cho Quỹ gọi tắt là DSF ( Diosecan Special Fund) chia theo tỷ lệ cho các giáo xứ và  buộc phải đóng đủ khoản tiền trợ giúp này cho Giáo Phận để giúp tài trợ cho các chương trình mục vụ, đào luyện và bác ái của Tổng Giáo Phận trong một năm.

Ngoài nghĩa vụ bó buộc trên đây,  giáo dân còn có bổn phận tài chính với giáo xứ của mình qua những cuộc lạc quyên trong các thánh lễ cuối tuần ( weekend collections). Số tiền này giúp giáo xứ trang trải các chi phí cần thiết về bảo trì, sửa chữa, điện, nước, sách phụng vụ , âm nhạc, và trả lương, bảo hiểm cho nhân viên phục vụ giáo xứ kể cả chi phí ăn ở  và chút lương cho cha xứ, cha phó theo quy định của mỗi Giáo phận

Nếu không có sự đóng góp hảo tâm của giáo dân vào việc này thì không giáo xứ nào có thể tồn tại, sinh họạt được vì không có tiền chi phí cần thiết và trả các bills lớn nhỏ hàng tháng.

Tuy nhiên, trong Giáo Hội Công Giáo, thông dụng ở khắp nơi cho đến nay, thì việc đóng góp  này của giáo dân  chỉ có tính cách tự nguyện chứ không bó buộc khắt khe như ở nhiều giáo phái khác, nơi người ta qui định rõ việc đóng góp  là 10% lợi tức hàng tuần. Nếu tín hữu nào không chu toàn thì được mời ra khỏi cộng đoàn đó.

3-  Có luật buộc phải dùng phong bì dâng cúng (offerings envelopes) mới được lãnh các bí tích hoặc cho con em học giáo lý không ?

Tuyệt đối không có luật này trong Giáo hội Công Giáo ở khắp nơi. Vậy nơi nào, giáo xứ nào đặt ra luật này là sai trái hoàn toàn, vì mọi bí tích được phải ban phát nhưng không (gratuitous) cho mọi giáo hữu chứ không thể là chuyện mua bán, đổi trác  bao giờ. Nếu ai làm vì mục đích mua bán thì đã công khai phạm tội mại thánh (simonia) mà Kinh Thánh,  giáo lý và giáo luật của Giáo Hội đều lên án và nghiêm cấm.( x. Cv 8:9-24; SGLGHCG, số 2121-22; giáo luật(canon laws) số 848, 947)

Nhưng cần phân biệt : tiền thâu với mục đích gì ? để ban bí tích hay để giúp trả chi phí cho nhà thờ khi cử hành bí tích ?

Cụ thể, nếu linh muc đòi phải trả bao nhiêu tiền để  rửa tội, thêm sức, dâng thánh lễ, chứng hôn hay cử hành nghi thức an táng thì đây là tội “buôn thần bán thánh” ( simonia) phải lên án. Ngược lại,  nếu giáo xứ thu một khoản lệ phí nào để mua dụng cụ như áo trắng, nến trắng  phát cho các em được rửa tội, thêm sức, hoặc lệ phí trang hoàng nhà thờ, dùng điện,  nến và ca đoàn trong lễ cưới , lẽ Quinceneras ( thiếu nữ Mễ 15 tuổi) kể cả chút ít tiền cho người phụ trách tập dượt ( rehearsal) nghi thức  hay cho các em giúp lễ  thì đây là chuyện khác, không liên hệ gì đến điều kiện để  lãnh các bí tích. Các lệ phí này, nhiều ít tùy mỗi giáo xứ qui định để giúp việc bảo trì nhà thờ  và trả bill điện  dùng máy lạnh hay máy sưởi trong các dip đó mà thôi.

Nhưng nếu giáo dân nghèo không có tiền để trả cho lệ phí tương trưng này, thì cha xứ cũng không được từ chối cho các em lãnh bí tích chỉ vì không có tiền trả lệ phí kia. Nhất là không được phép đòi buộc ai phải xuất trình phong bì dâng cúng hàng tuần  cho giáo xứ như điều kiện để được ghi tên học giáo lý rửa tội, thêm sức rước lễ lần đầu, cử hành hôn phối hay tang lễ. Chắc chắn như vậy vì không Giám Mục hay khoản giáo luật nào cho phép  làm việc này. Ngược lại, các cha xứ đều có bổn phận theo giáo luật và khuyến cáo của Giám mục là phải hết lo cho đời sống thiêng liêng của giáo dân được trao phó cho mình chăm sóc mục vụ. (cf. Cans, nos. 519, 528-530). Ngoài ra, việc dạy giáo lý cho cha mẹ và người đỡ đầu rửa tội (godparents), thêm sức là trách nhiệm mục vụ của cha xứ . Người thụ hưởng muốn đãi ngộ hay không tùy ý và hảo tâm chứ không bắt buộc. Nhưng nếu ai lợi dụng việc này để thu tiền, dù lấy cớ là để giúp việc bác ái hay gửi về giúp các giáo xứ bên ViêtNam, thì đây hoàn toàn là việc làm tự tiện không căn cứ vào qui định  nào của Địa phận hay giáo luật. Cũng không được phép đòi tiền, dù ít hay nhiều, để chứng hôn hoặc cử hành lễ tang, dù là để lấy tiền giúp việc từ thiện hay bảo trợ ơn gọi v.v. Nghĩa là không được lợi dụng hoàn cảnh vui, buồn của ai để làm tiền cách bất chính, gây phương hại cho uy tín và mục đích của Giáo Hội.

Sau nữa, ngay cả việc học giáo lý của trẻ em, mặc dù các giáo xứ đều có thu lệ phí ít, nhiều để trang trải các chi phí điều hành lớp học, nhưng nếu gia đình nào quá nghèo túng không thể đóng được khoản lệ phí này hay không dùng phong bì dâng cúng, thì giáo xứ cũng không được từ chối cho con em họ ghi tên học giáo lý. Nghĩa là không được gây cho ai cảm nghĩ rằng nghèo túng, không tiền thì miễn hưởng các lợi ích thiêng liêng trong Giáo hội.

Nhưng cũng cần nói thêm là tiền xin lễ theo Giáo quyền qui định hoặc tiền giáo dân tự nguyện biếu linh mục trong các dịp rửa tội, thêm sức, lễ cưới , lễ tang thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi gì. Vậy cần phân biệt giữa hai việc đòi hỏi phải trả và tự ý dâng cúng. Nếu đã tự ý cho thì đừng phàn nàn, kêu trách ai nữa.

Tóm lại, các linh mục đều được khuyến cáo chu toàn trách nhiệm mục tử của mình với tất cả lương tâm và lòng yêu mến sứ vụ thiêng liêng và trong tình bác ái Kitôgiáo  để tránh gương xấu về tiền bạc, và làm cớ cho người ta oán trách, từ bỏ hay xa tránh Giáo Hội vì tội mại thánh.

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

VỀ MỤC LỤC
Noi gương Cha tôi
 

Cha tôi là Đoàn đức Hải, ông nội  tôi là Đoàn đức Nhuận. Nhưng các cụ lại đặt tên cho tôi là Thanh Liêm. Tôi đoán đó là do ông nội tôi đặt, vì cụ vốn là một ông đồ nho. Vì là con trai trưởng , nên cha tôi rất gần gũi và hiếu đễ với ông nội theo như phong tục truyền thống Khổng giáo hồi xưa.

Tôi lại làm nghề luật sư, nên khi nói chuyện với người Mỹ thì thật tức cười. Tôi  giải thích cho họ tên Liêm của tôi có nghĩa là Honesty, nên quý vị có thể gọi tôi là Luật sư Liêm tức là Lawyer Honesty. Nghe vậy, thì mười người như một, họ đều cười ngất. Vì đa số người Mỹ cho rằng chẳng có luật sư nào mà lại lương thiện được cả. Thành ra họ coi đó là một nghịch lý, thật buồn cười.

Tôi phải giải thích với họ rằng cái tên của tôi là do cha mẹ đặt cho ngay từ lúc mới chào đời, tôi nào biết gì mà chọn lựa. Chắc là cha mẹ mong ước sau này tôi sẽ là một người lương thiện, nên mới chọn tên Liêm cho tôi. Do đó, tôi phải sống làm sao cho xứng đáng với sự mong ước đó. Đó là điều tôi không thể né tránh được: No escape! Thành ra tôi chưa bao giờ kiếm được nhiều tiền với nghề luật sư.  Nghe vậy, mấy người Mỹ hiểu ra, đều gật đầu thông cảm.  

Năm 1948, lúc tôi 14 tuổi, thì Việt minh đến nhà bắt cha tôi đi biệt tăm. Và đến năm 1952, đến lượt mẹ tôi cũng qua đời, trong lúc tôi chưa xong bậc Trung học, nên cả cha lẫn mẹ tôi đều không biết đến nghề luật sư mà tôi chọn cho mình làm phương kế sinh nhai

Tuy cha mẹ mất sớm, nhưng nhờ các anh chị bao bọc huớng dẫn mà tôi đã trưởng thành chững chạc và giữ được gia phong gia đạo, bảo tồn được nề nếp truyền thống của dòng họ nhà mình. Và tôi thật biết ơn cha mẹ về điều này.

Nhân dịp Lễ  Father’s Day, tôi xin ghi lại một ít điều tôi học được của người ngay từ tấm  bé. Vào năm 1940-1941 lúc lên 6-7 tuổi, tôi thường đựợc cha dẫn đi theo chỗ này chỗ nọ. Nhờ vậy, tôi rất gắn bó với người. Cha tôi được sự quý trọng của nhiều bà con trong dòng họ cũng như trong làng quê. Tôi thấy ông hay giúp đỡ người khá , vì ông khỏe mạnh lại khéo tay, nên làm việc gì cũng mau lẹ, gọn gàng. Do đó, bà con thường hay đến nhờ vả ông giúp đỡ công việc mỗi khi cần thiết. Ông củng thường dẫn tôi đến thăm các cụ già trong thân tộc và tìm mọi cách chia sẻ đồ ăn với bà con ở nông thôn vốn thường túng thiếu.

Là con trưởng của ông đồ vào cái thời nho học đã suy tàn, nên ông chẳng được học hành bao nhiêu. Ông biết đọc chữ quốc ngữ, nhưng coi bộ cũng chẳng thong thạo gì cho lắm, vì thường thì ông bảo tôi đọc báo hay thư từ cho ông nghe. Còn về chữ nho, tôi cũng ít thấy ông mở sách ra đọc.  Mẹ tôi có lần kể cho ngh : “bố con là người có tính quyết đáp , một khi đã suy tính để quyết định việc gì, thì phải thực hiện cho bằng được. Và ít khi chần chừ, ngập ngừng trước một khó khăn nào. Làm con trai, con phải học được tính khẳng khái quyết đáp như bố con ấy…” 

Mỗi khi ra thăm đồng ruộng, ông thường cầm theo một con “dao  rựa“ dài đến trên 80 cm, kể cả cán dao. Dao này thật là đa dụng , vì có thể làm được rất nhiều việc, ngoài việc cắt, chặt các vật cứng cáp, ông còn dùng để đào, xúc đất hay khai mương thoát nước cho các thửa ruộng bị ngập úng, giúp bà con trong các gia đình neo đơn ít người có khả năng chăm sóc ngoài đồng áng. Ông cũng thường dùng mũi dao để xúc phân trâu, phân bò nằm ngay giữa lối đi lại, và hất xuống thửa ruộng gần đó. Điều nhỏ nhoi ông làm đã cho tôi một bài học về sự tự nguyện phục vụ công ích, giúp đỡ mọi người khi mình có điều kiện làm được. Bố tôi thường hay nhắc nhủ các anh chị lớn là “Thấy cái gì chướng tai gai mắt , thì phải ra tay sửa sang lại , chứ không được bàng quan, dửng dưng trước tình trạng trái khoáy. Đó mới là tác phong của một con người có gia giáo và tư cách của một dòng tộc có uy tín trong xóm làng …”    

Trong các bữa ăn gia đình, mỗi lần có anh chị nào than phiền này nọ về cách xử sự không tốt của một bà con  trong làng xóm, thì cha tôi thường hay khuyên can, ông nói: “Người ta đâu có nghĩ được như mình. Do đó, mình không nên chấp nhất đối với họ về chuyện không hay như thế “. Sau này khi đã lớn, lúc đọc được đoạn văn trong cuốn “ Livre de mon ami “ của văn hào Anatole France, tôi cũng thấy được lời khuyên bảo của một người cha giống hệt như bố tôi đã dậy anh chị em chúng tôi khi xưa.  

Tôi vẫn còn nhớ ông cụ bảo tôi là: “ Mỗi khi con muốn hỏi tên người nào ngang tuổi hay lớn hơn , thì nhớ phải dùng chữ nho cho lịch sự. Chẳng hạn “Xin cho biết quý danh“ , chứ đừng     “Xin cho biết tên“. Có thể bây giờ người ta dễ dãi, đơn giản hơn, nên cứ xài chữ nôm, khác với hồi xưa chữ nho vẫn còn thịnh hành hơn chăng?

 Cha tôi không phải là người hoạt động chính trị,  thế mà vẫn không thoát khỏi việc bị Việt minh bắt đi mất tích vào đầu năm 1948. Trước đó vào mùa hè năm 1947, Việt minh đã bắt giết cậu út, em của mẹ tôi là Tống văn Dung và quẳng xác xuống sông Trì Chính, Phát Diệm, khiến mẹ tôi phải vật vã than khóc suốt bao nhiêu ngày đêm. Và dù đến khi mẹ chết vào năm 1952 tại nhà bà Cô Phó Tích, là em của cha tôi, nỗi đau buồn vì mất em và mất chồng do Việt minh gây ra vẫn không hề nguôi ngoai.

Từ trên 40 năm nay, tôi dấn thân vào hoạt động xã hội, phục vụ đồng bào. Và tôi cũng bị chính quyền ... bắt tù chỉ vì tôi tranh đấu đòi Dân chủ, Tự do, Nhân quyền cho VN. Tôi làm như vậy, cũng chỉ vì noi gương ngay thẳng, chính trực và hết lòng phục vụ dân tộc của cha tôi mà thôi. Tôi thật biết ơn cha về tấm gương tiết tháo lẫm liệt đó. Và tôi cũng rất tự hào có được một người cha chí khí, dũng cảm, yêu thương hết moi người mà hồi sinh thời bà con vẫn goi cụ là Ông Chánh Hải ở xã Cát Xuyên, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định..

Cha tôi đã khuất gần 60 năm rồi. Nhưng cái nết na, cái phong thái quả cảm và lòng hy sinh tận tụy của người với bà con, với làng nước thì vẫn còn mãi trong lòng anh chị em chúng tôi.  

Luật sư Đoàn Thanh Liêm 

VỀ MỤC LỤC
ĐIỀU KHÁC THƯỜNG TRONG NHỮNG CÁI BÌNH THƯỜNG

 

Tôi vẫn nhớ câu chuyện thầy Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương kể cho chúng tôi nghe trong một buổi học: Lúc thầy còn trẻ ở quê miền Trung, trong một lần dạo chơi ngoài đồng vắng, chú “tiểu đồng” đi theo đã hỏi thầy: “Cậu ơi, bông hoa nở trong kẹt đá để làm chi, không có ai thấy cả!”.

Câu hỏi của chú bé nọ đã ăn sâu vào trí nhớ của tôi. Nhiều lần tôi đã suy nghĩ đề tìm câu trả lời, nhưng tôi chỉ tự trả lời được bằng một câu “kinh điển” chung chung: Vì Thiên Chúa yêu thương loài người nên Ngài dựng nên muôn loài muôn vật cho loài người hưởng dùng mà ca ngợi Ngài!

Tôi đã “ví von” câu chuyện này qua bài thơ “Ngẫm Nghĩ” sau đây:                      

Đoá hoa nở giữa đồng không.

Con chim hót giữa mênh mông đất trời.

Sao lấp lánh giữa chơi vơi.

Cá tôm bơi lội giữa khơi nước ngàn.

Vô thường mà lại đa mang,

Thân con giữa chốn trần gian đông người.

Sinh ra để khóc hay cười?

***

Hôm nay, sau một cuộc nói chuyện với hai bạn trẻ đến thăm và sau khi tình cờ đọc xong một đoạn trong cuốn “Hoàng Tử Bé” của Saint-Exupéry, tôi đột nhiên “thấy” được một câu trả lời có vẻ cụ thể và “sát sườn” hơn cho mình: “Bông hoa ấy nở trong kẹt đá là để chú bé kia thấy nó và đặt ra câu hỏi nọ”. Bông hoa ấy không nở ra một cách “vô nghĩa lý” trong cuộc đời!

Tôi thử suy nghĩ thêm và thấy có điểm tương đồng giữa bông hoa nọ và một con người nào đó đang hiện diện trên cuộc đời này: Không ai có mặt trên cuộc đời một cách “vô nghĩa lý” cả. Nếu Thiên Chúa dựng nên một người thì chắc chắn người ấy đã được Ngài trao cho một sứ mạng để hoàn thành.

Tôi trở lại suy nghĩ về những bông hoa và thấy Thiên Chúa đã dựng nên quá nhiều bông hoa, hình như nhiều hơn cả mức cần thiết, như chú bé nọ đã nhận xét. Nhưng nghĩ cho kỹ, tôi thấy bất kỳ bông hoa nào - dù là bông hoa dại - cũng có một “sứ mạng”: hoặc là để cho con người ngắm nhìn, hoặc là để cho ong bướm hút mật, hay thậm chí để cho chim chóc côn trùng nhấm nháp cho no bụng... Không bông hoa nào nở ra một cách vô ích cả.

Con người cũng vậy. Hình như Thiên Chúa dựng nên nhiều người quá, có lẽ nhiều hơn cả mức cần thiết? Thầy Dương đã đưa ra nhận xét như thế khi đi giữa đường phố Sài Gòn đông nghẹt người.

***

Trong hàng tỷ người đang có mặt trên trái đất này, thoạt nhìn, có rất nhiều cuộc đời xem ra vô nghĩa lý vì “ẩn khuất trong những kẹt đá” như bông hoa mà chú bé nọ đã tình cờ nhìn thấy. Họ âm thầm được sinh ra và âm thầm chết đi mà chẳng để lại dấu tích gì trên trần gian. Thậm chí nhiều khi cuộc đời họ chỉ toàn là đắng cay bất hạnh phải âm thầm gánh chịu một mình. Thế thì họ được sinh ra làm gì nhỉ?

Chú bé nọ “tình cờ” gặp được bông hoa và đặt ra được một câu hỏi. Khi ấy chú còn quá nhỏ để biết rằng câu trả lời đã nằm sẵn trong câu hỏi mà chú đặt ra. Tôi hy vọng rằng khi lớn lên chú đã tìm ra câu trả lời cho mình. Nếu còn sống, bây giờ chắc “chú” cũng đã bước qua tuổi 70!

Riêng tôi, nhờ câu hỏi ấy mà tôi tìm ra được một câu trả lời về cuộc nhân sinh cho chính mình: Mỗi một con người được sinh ra trên mặt đất này là để hạnh ngộ với một-ai-đó.

Rất nhiều lần và rất tình cờ, tôi đã được soi sáng bởi những con người “vô danh”: những người hành khất, những người tàn phế, những đứa trẻ con, những người nhà quê bình dị... Nếu được phép, tôi xin ví họ như những bông hoa nở trong kẹt đá. Họ âm thầm sống giữa cuộc đời, không kỳ vọng có một ai đó “ngắm nhìn” mình, “trưng bày” mình cho những người khác chiêm ngưỡng. Họ sống một cuộc đời bình dị. Họ được sinh ra trong bình dị và sẽ chết đi trong bình dị, hầu như không để lại một dấu ấn nào cho những người chung quanh. Tuy nhiên, nếu xét cho kỹ, họ đang âm thầm thực hiện sứ mạng cao cả của mình dù họ không hay biết. Nếu họ sống đúng với ơn gọi làm người, chắc chắn họ đang soi sáng cho ít là một-ai-đó đã may mắn tình cờ gặp được họ. Là người, họ đang thực hiện sứ mạng cao cả của một con người trong cuộc đời này.

***

Là Kitô hữu, là con cái “gần gũi” của Thiên Chúa, chắc chắn tôi đang mang trong mình một sứ mạng trọng đại mà Thiên Chúa trao phó. Sứ mạng ấy trọng đại không phải vì tôi sẽ làm những việc lớn lao mang lại những thành công vang dội khiến nhiều người trầm trồ thán phục. Không, như một bông hoa dại nở trong kẹt đá, sứ mạng trọng đại của tôi là hãy nỗ lực làm triển nở toàn vẹn ơn gọi Kitô hữu trong chính hoàn cảnh sống hiện tại của mình. Rồi đến một lúc bất ngờ nào đó, phút giây hạnh ngộ giữa tôi và một-ai-đó sẽ đến. Nếu cuộc gặp gỡ này có thể giúp cho người đó đặt ra câu hỏi về ý nghĩa của cuộc nhân sinh, thì tôi đã thực hiện được sứ mạng mà Thiên Chúa uỷ thác khi Ngài cho tôi được diễm phúc sinh ra trong cuộc đời này.

Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết sống một cách “khác thường” những điều “bình thường” trong mọi giây phút của cuộc đời con. Amen./.

- Trầm Tĩnh Nguyện -

VỀ MỤC LỤC

TÌNH YÊU KHÔNG GHEN TƯƠNG

 

Tác phẩm 13 Nét mặt của Tình yêu      Dominique AUZENET

Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy   chuyển ngữ

Chương Ba TÌNH YÊU KHÔNG GHEN TƯƠNG

Chúng ta đã cùng nhau xem xét Tình yêu nhẫn nại, Tình yêu phục vụ. Bây giờ đến bảng liệt kê tiêu cực tám động từ giúp chúng ta phân biệt cái không phải là tình yêu, và những thái độ cụ thể của tội lỗi mà chúng ta phải chế ngự và hoán cải để sống một tình yêu thánh thiện, trong tương quan với tha nhân. Trước hết thánh Phaolô khảo sát tính ghen tuông.

1. Những cạnh tranh mà tính ghen tuông len lỏi vào và những tồn tại...

Thánh Phaolô năng trở lại vấn đề nầy trong các thư của ngài, và nếu chúng ta muốn hiểu rõ điều ngài tố cáo khi viết tình yêu không ghen tuông, cần phải trích dẫn ít đoạn văn chi tiết hơn :     

"Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và hãy cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày : không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đảng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng" (Rm 13,12-14).

"Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao ? Khi người nầy nói Tôi, tôi thuộc về ông Phaolô, và người khác Tôi, tôi thuộc về ông Apollô, thì anh em chẳng phải là người phàm tục sao ?" (I Cor 3,3-4).

"Quả vậy, tôi sợ rằng khi tôi đến, tôi không thấy anh em được như ý tôi, và anh em thấy tôi không được như ý anh em. Chớ gì ở giữa anh em đừng có chia rẽ, ghen tương, oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu căng, hỗn loạn" (II Cor 12,20).

"Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo : những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.

Còn hoa quả của Thần Khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. Những ai thuộc về đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.

Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ  nhau" (Gal 5,19-26).

Như vậy chúng ta thấy rõ, trong khi nói đến tính ghen tuông, thánh Phaolô đã tố cáo thế nào những lối ứng xử do "xác thịt" mà ra, tức từ quả tim của con người tội lỗi. Thánh Phaolô mô tả chi tiết những gì đến từ xác thịt : xâu xé, chia rẽ, lời nói cộc cằn... và ngài đặt nó đối nghịch với những gì mà Thánh Thần muốn tỏa ra trong chúng ta : lòng tốt, kính trọng, tín nhiệm... Do đó ngài khuyến dục hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14).

Trong thư của ngài, thánh Giacôbê tông đồ cũng đi hướng đó bằng cách đặt đối nghịch sự khôn ngoan trên cao với những ứng xử trần gian :

"Ai là người khôn ngoan và từng trải trong anh em? Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà chứng tỏ rằng những hành động của họ phát xuất từ lòng hiền hậu và đức khôn ngoan. Nhưng nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại mà nói dối trái với sự thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ. Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình, là cuộc đời công chính" (Jc 3,13-18).

Trong những đoạn thư của các tông đồ mà chúng ta vừa đọc, tính ghen tuông là thành phần của một toàn thể các thái độ và ứng xử được xui khiến bởi một tinh thần cạnh tranh :

·        Những cãi vã, tranh luận, bất hòa, ác tâm, bất đồng...

·        Đầu óc hay kiếm chuyện và ti tiện,

·        Chuyện ngồi lê đôi mách và vu khống,

·        Rối loạn và phá hoại trong cộng đoàn.

Tất cả những thứ đó là thuốc độc thực sự đối với các cộng đoàn tín hữu. Chỉ có việc tiếp đón Chúa Thánh Thần mới có thể vô hiệu hóa những thực tại xấu xa nầy, bằng cách làm xuất hiện những hoa quả tốt lành xây dựng cộng đoàn.

2. Một ý muốn quyền lực trên con người và sự vật.

a) Cần phải đi xa hơn trong suy tư. Chính xác tính ghen tuông là gì ? Tiếng Hylạp là zèlos, nghĩa là nhiệt tâm. Dưới khía cạnh nầy, tính ghen tuông do nhiệt tâm thái quá mà sinh ra. Thánh Phaolô viết : tình yêu không được nhiệt tâm thái quá. Ngài bận lòng tố cáo sự thi đua, những cạnh tranh thiêng liêng làm cho một số tín hữu đứng lên chống lại nhau, như ở Côrintô chẳng hạn :

"Tôi xin anh em... chớ gì đừng có sự chia rẽ giữa anh em... Mỗi người trong anh em nói rằng tôi thuộc về Phaolô. Và tôi thuộc về Apollô. Và tôi thuộc về Kêpha. Còn tôi thuộc về Đức Kitô. Vậy Đức Kitô bị phanh thây rồi sao ?(I Cor 1,10-13).

Các phe phái có thể do những người có cá tính mạnh qui tụ lại chung quanh mình những người theo sở thích của họ, nhưng cũng bởi những con người "ham làm lãnh tụ"...

Trong mọi trường hợp, sự gắn bó quá đáng với những cá nhân được thiết lập như những "thầy tinh thần" (gourous) hay sự thống trị của một số người nào đó trên kẻ khác, kết cuộc luôn luôn mang lại những hậu quả xấu... Thánh Phaolô tố cáo những thủ đoạn của những người Dothái tòng giáo đã đến nói với các tín hữu Galata rằng họ sẽ không thể được rỗi nếu không chịu cắt bì :

"Họ nhiệt thành với anh em không phải vì mục đích tốt, mà chỉ vì muốn ly gián anh em với tôi, để anh em nhiệt thành với họ. Được người ta tỏ lòng nhiệt thành là điều tốt, miễn là vì mục đích tốt và trong mọi trường hợp, chứ không phải chỉ khi nào tôi có mặt giữa anh em" (Gal 4,17-18).

"Tình yêu chỉ phải đương đầu với loại cuộc chiến nầy. Cần phải nghiêm túc nghĩ đến điều đó trong tất cả các giáo đoàn, nơi mà lòng nhiệt thành thái quá sẽ nhanh chóng trở thành đáng ngờ : thay vì hiệp nhất các thành phần của cùng một cộng đoàn thì nó đặt họ đối nghịch nhau và làm cho họ thành đối thủ với nhau. Than ôi, lắm khi có những cuộc cạnh tranh ngay trong lòng Giáo Hội khó mà hiểu nổi. Thánh Phaolô đã quen với điều đó nên đã viết : "Chính vì tính ưa tranh giành mà họ loan báo Chúa Kitô, họ không có lòng ngay..." (Phil 1,17).

Do đó, theo cách của mình, thánh Phaolô nhắc nhở rằng Thiên Chúa không cần đến công việc của chúng ta, nhất là với những công trình mà chính ta thực hiện bởi lòng đam mê để xây dựng Nước Ngài đâu... Vẫn có chồng chất những lòng nhiệt thành và những đam mê. Nhưng tiêu chuẫn chính là tình yêu"[1]

 b) Tính ghen tương cũng nảy sinh trong tâm hồn chúng ta vì sự kinh ngạc đối với một người bộc lộ và tỏa ra một ánh sáng mà cuộc đời ta không có. Ý muốn quyền lực của tôi, nhất là khi nó bị nhạo báng, làm cho tôi ghen tức với những gì làm cho người kia sống có chiều sâu và tôi cảm nhận trong mình như bị tổn thương... Trong trường hợp nầy, như một dốc khác của sự khâm phục, tính ghen tuông liều nảy sinh một bạo lực rất mạnh. Bạo lực nầy có thể đi đến chỗ gây nên chết chóc : "Philatô biết rằng chỉ vì ghen tương mà các thượng tế đã bắt nộp Chúa Giêsu" (Mc 15,10).

Sự khiêm tốn tìm kiếm hiệp nhất có thể giải thoát các tâm hồn, cho người bị ghen ghét cũng như cho kẻ ghen ghét:

"Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, bằng việc hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác hơn mình" (Phil 2,2-3).

Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết vui vẻ đánh giá cao những gì là đẹp đẻ và tốt lành trong đời sống của những người chung quanh.

c) Tính ghen tuông cũng là một biểu hiện của lòng tham lam, ham hố... Chúng thần tượng hóa các của cải vật chất, cách đặc biệt ở đây là của cải người khác, ngay cả của người anh em trong cộng đoàn. Lòng tham lam cộng thêm tính ghen tuông phát xuất từ một con tim cần phải được thanh luyện. Chúng ta đừng sợ những bóng tối nội tâm nầy, hãy để cho chúng lộ ra ánh sáng, và chúng ta hãy mang chúng đến giao cho Chúa trong bí tích hòa giải. Một khi được lòng thương xót Chúa giải thoát, tôi có thể lưu lại trong cộng đoàn như một người anh em.

Ngược lại, nếu vì bất chấp hay vì kiêu ngạo, tôi tự đóng kín trong những tối tăm của mình, tôi sẽ trở nên một chướng ngại cho chính cộng đoàn của mình :

"Khi viết thế, tôi muốn nói với anh em là đừng đi lại với kẻ nào mang danh là người anh em mà cứ dâm đãng, tham lam, thờ ngẫu tượng, quen chửi bới, say sưa rượi chè hay trộm cắp, ngay cả anh em cũng phải tránh đừng ăn uống với con người như thế" (I Cor 5,11).

Sự thanh tẩy tâm hồn nhằm đạt được đức ái đích thực cũng chính là Lời Chúa kiện toàn sự thanh tẩy ấy trong chúng ta. Thánh Phêrô nhắc nhở cho chúng ta rằng Lời Chúa tái sinh và thanh tẩy tâm hồn chúng ta, đổi mới các mối tương quan với những người sống chung quanh chúng ta:

"Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành... Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi... Vậy anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương, cùng mọi lời nói xấu, gièm pha. Như  trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa..." (I P 1,22 - 2,2).

 

Suy niệm để lần hạt Mân Côi

1. Tình yêu không ghen tuông. "Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là ... hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ... Còn hoa quả của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ... Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần thì cũng hãy nhờ Thánh Thần mà tiến buớc. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau" (Gal 5,19-26). Chúng ta hãy dâng mình cho Chúa Thánh Thần để Ngài làm lớn lên trong chúng ta hoa trái của Ngài.

2. Tình yêu không ghen tuông. "Ai là người khôn ngoan và từng trải trong anh em? Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà chứng tỏ rằng những hành động của họ phát xuất từ lòng hiền hậu và đức khôn ngoan. Nhưng nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại mà nói dối trái với sự thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ. Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình, là cuộc đời công chính" (Jc 3,13-18). Chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong các gia đình và cộng đoàn của chúng ta.

3. Tình yêu không ghen tuông. "Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, bằng việc hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác hơn mình" (Phil 2,2-3). Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết vui mừng đánh giá cao những gì là đẹp đẻ và tốt lành trong đời sống của các anh chị em chung quanh.

4. Tình yêu không ghen tuông. "Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày : không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng" (Rm 13,12-14). Chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai đang sống trong tối tăm được ơn trở lại.

5. Tình yêu không ghen tuông. "Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn, vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi... Vậy anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương, cùng mọi lời nói xấu, gièm pha. Như  trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa..." (I P 1,22 - 2,2). Chúng ta hãy xin cho được lòng yêu mến Lời Chúa, để lời đó thanh tẩy tâm hồn chúng ta cho một tình bác ái lớn lao hơn.

 

VỀ MỤC LỤC
Thay Đổi Hình Dáng của tuổi Già

 

Thay đổi cấu trúc bên ngoài của cơ thể đôi khi là những chỉ dấu báo hiệu sự sắp tới của tuổi già. Và thường thường con người sẽ có những ngỡ ngàng, những ưu tư trước các thay đổi đó.

 

1-Thay đổi về tóc

Với khoa học, lông và tóc giúp bảo vệ cho đầu khỏi bị tác dụng nguy hại của ánh nắng mặt trời, ngăn ngừa sự xâm nhập vật lạ vào mắt, mũi. Nhưng với con người, tóc là món đồ trang trí quý giá, một biểu tượng của cá tính. Do đó tóc được chăm sóc rất chu đáo. Khi tóc thay đổi với tuổi già thì nhiều người thấy không vui, tìm đủ mọi cách để che đậy.

Về cấu tạo, tóc là một tập hợp những tế bào khô đã chết được đẩy lên khỏi da từ một túi nang ở chân tóc. Trong chân tóc có mạch máu, dây thần kinh, tuyến tiết chất nhờn. Trung bình trên đầu có hơn 100,000 sợi tóc và mỗi ngày có khoảng một trăm sợi rụng đi.

Tại chân tóc có những tế bào đặc biệt được sắp đặt để vào một tuổi nào đó tiết ra chất mầu melanin khiến cho tóc đen, bạch kim hoặc hung hung đỏ.

Cho tới nay chưa có giải thích thỏa đáng cho những thay đổi của tóc khi về già như thay đổi về số lượng, mầu sắc và phẩm chất của tóc. Mặc dù những thay đổi này không mang lại ảnh hưởng xấu cho sức khỏe nhưng con người lại rất quan tâm đến.

a- Tóc bạc

Về mầu sắc, sự kiện tóc bạc hay tóc hoa râm là những dấu hiệu khá sớm của tuổi về già.

Tóc bạc bắt đầu từ hai bên thái dương rồi lan lên đỉnh đầu. Mới đầu, nó còn có tính cách muối tiêu, trắng đen lẫn lộn, sau đó thì muối nhiều hơn tiêu.  

Sở dĩ tóc thành trắng là vì loại tế bào sinh hắc tố (melanin) giảm đi, tóc trở thành không có mầu, ánh sáng phản chiếu lên khiến cho tóc như trắng.

Cho đến nay khoa học chưa chứng minh tại sao tế bào này giảm đi cũng như chưa tìm ra cách ngăn chặn được sự giảm này.

Ða số các nhà nghiên cứu cho tóc bạc vì gen di truyền hoặc vì sự hóa già. Cũng có ý kiến cho là vì thiếu sinh tố loại B, kém dinh dưỡng, do thời thiết, ô nhiễm hóa chất trong môi trường hoặc do căng thẳng tâm thần, buồn phiền quá mức.

Vì không ngăn ngừa, không chữa được nên con người tìm cách che đậy, thay đổi sự bạc trắng này bằng mỹ phẩm nhuộm tóc, mang tóc giả hoặc cấy tóc.

Giáo sư Kyonggeun Yoon và các nghiên cứu gia tại Ðại học Y Khoa Jefferson, Pennsylvania, đã thành công trong việc chuyển đổi tóc từ trắng sang đen của chuột mắc bệnh bạch tạng bằng điều chỉnh gen di truyền. Kết quả nghiên cứu được công bố trong tạp chí Nature số tháng Giêng năm 2000. Mong rằng phương thức này sớm mang lại kết quả tốt đẹp để có thể áp dụng cho người già tóc bạch kim.

Tuy được coi là một dấu hiệu sớm của tuổi về già, nhưng sự bạc tóc chỉ xảy ra ở khoảng 65% người cao tuổi, còn 35% thì hoặc tóc không bạc hay chỉ bạc khi tuổi rất cao.

Nhiều trung niên, mới 25-30 tuổi tóc đã bạc.

Thành ra sự bạc tóc không phải là chỉ dấu của sự hóa già của các bộ phận trong cơ thể, cũng như không có ảnh hưởng gì tới sức khỏe hay tới tuổi thọ. Nhiều người hãnh diện có mái tóc bạch kim, tự cho là người từng trải, có kinh nghiệm và đáng tin cậy.

Thánh kinh có ghi “Tóc bạc là vương miện của sự vinh quang”

Còn huyền thoại Ngũ Tử Tư, sau một đêm trầm suy, sáng dậy tóc đã bạc trắng cũng vẫn chỉ là huyền thọai, không có giải thích khoa học.

b- Rụng tóc

Rụng tóc là một hiện tượng bình thường xẩy ra ngay từ khi còn trẻ. Nhưng với tuổi cao, tóc rụng nhiều hơn nhất là khi da đầu bị nhiễm trùng, hoặc do ảnh hưởng của một vài dược phẩm, chất phóng xạ trị liệu, vài loại thực phẩm.

Trung bình, mỗi ngày có khoảng 100 sợi tóc rụng. Lông nách và lông mu cũng chịu cùng số phận.

Ngoài ra, khi về già tóc khô, giòn, dễ rụng vì các tuyến nhờn kém họat động.

Ở nữ giới, lông tóc mọc ở cằm trên khi số lượng kích thích tố nữ giảm vào thời tắt kinh và gây ra nhiều ngượng ngùng cho quý bà. Ta có thể nhổ, cạo hoặc dùng các chất hóa học để làm mất những sợi lông vô duyên này.

Ngoài ra khi qúy bà dùng thuốc có nam kích thích tố, thì lông tóc cũng mọc ra ở mặt và thân thể, nhưng khi ngưng thuốc thì lông tóc ngưng mọc.

 

2- Thay đổi về da

Với một diện tích 17 thước vuông, da là bộ phận lớn nhất của cơ thể.

Về phương diện cấu tạo, da đã làm nhiều kiến trúc sư xây dựng ngạc nhiên, thán phục vì tính cách bền bỉ, đàn hồi và nhậy cảm của nó.

Da là đồng minh bảo vệ cơ thể chống ngoại vật xâm lăng như vi khuẩn, cát bụi, những phũ phàng của thời tiết nóng lạnh, thay đổi của thiên nhiên.

Nhưng da cũng tố giác tuổi già với nhiều thay đổi không đẹp như da nhăn nheo, khô cằn, mềm xệ hoặc những vết đồi mồi...

Về cấu tạo, da có ba lớp chính: biểu bì, bì và hạ bì với các chức năng khác nhau.

-Biểu bì là lớp ngoài cùng gồm tế bào tiết chất cứng gelatin để bảo vệ da; tế bào sắc tố làm cho da có mầu và chặn tia tử ngoại xâm nhập cơ thể. Biểu bì được liên tục thay thế và trong suốt cuộc đời 70 tuổi, ta mất đi tới 20 kí lô tế bào da.

-Bì là một mạng lưới tế bào với hai chất đạm elastin và collgen làm da được bền bỉ và co giãn. Bì còn có nhiều mạch máu, dây thần kinh, tuyến mồ hôi, tuyến nhờn và chân tóc.

-Hạ bì nằm dưới cùng, có nhiều tế bào mỡ, sợi thần kinh, mạch máu và được dùng như để gắn hai lớp bì và biểu bì vào cơ thể.

Sự hóa già mang đến nhiều thay đổi không đẹp lắm cho hình dáng con người ở cả ba lớp da.

Biểu bì hư hao nhiều hơn là tái tạo, mô mới kém tổ chức khiến cho biểu bì mỏng manh. Tế bào mầu, chất elastin và collagen giảm, tuyến mồ hôi và tuyến nhờn teo, giảm hoạt động. Những thay đổi đó đưa tới các hậu quả sau đây:

a-Da nhăn.

Sự xuất hiện của lớp da nhăn đầu tiên trên cơ thể làm nhiều người hoảng hốt, vì với da nhăn làm ta như già đi. Da nhăn nheo vì chất collagen giảm, chất elastin tăng, da mất tính đàn hồi.

Chúng ta có thể đo sự mềm dịu đàn tính của da bằng cách kẹp lớp da giữa hai ngón tay trong ít giây, rồi thả ngón tay, tính xem mất mấy giây để lớp nhăn trở lại bằng phẳng. Thường thì một hai giây, nhưng ở người trên 60 tuổi, thì phải mất vài chục giây.

Da nhăn nheo, không có nghĩa là những cơ quan cốt yếu trong cơ thể cũng suy mòn. Người trẻ tuổi mà da không được chăm sóc thì cũng vẫn nhăn như thường.

b.- Da khô

Ở người cao tuổi, sự bài tiết mồ hôi giảm vì những tuyến mồ hôi, tuyến nhờn giảm hoặc kém hiệu năng. Do đó da trở nên khô, ngứa, nhất là về mùa lạnh.

c- Thay đổi khả năng điều hoà thân nhiệt

Dưới lớp bì và biểu bì là một lớp mô mỏng chứa nhiều chất mỡ để chống sự thất thoát nhiệt độ cơ thể.

Ở người cao tuổi, lớp mỡ này mất đi, nhất là ở mu bàn tay, mặt và gan bàn chân. Các cảm giác ngoài da cũng kém, nhất là cảm giác đau. Vì thế người cao tuổi hay bị phỏng ở bàn chân.

 Số lượng những mạch máu nhỏ dưới da của người cao tuổi cũng ít hơn, cho nên người gìa chịu đựng độ lạnh kém người trẻ. Khi nhiệt độ giảm dưới mức an toàn, người già có thể bị lạnh cóng.

d- Chậm lành vết thương

Xúc giác giảm cộng thêm sự suy yếu của hệ thống miễn dịch kéo dài độ nhạy cảm của da khi tiếp xúc với hoá chất kích thích. Người già hay bị tổn thương nơi da. Khả năng lành da cũng rất chậm vì giảm máu nuôi dưỡng da.

Nhìn chung, những thay đổi theo tuổi già của da xuất hiện rõ nhất ở trên mặt. Vầng trán nhăn nheo với vết rạn chân chim ở đuôi con mắt; da mặt mỏng; xương mặt nhô; mạch máu lộ trên da; mí mắt xệ, quầng mắt đen; vành tai to chẩy xuống; cằm nhiều mỡ.

 

3- Thay đổi về chiều cao

Với tuổi đời chồng chất, con người như co lại, và dáng điệu ngay thẳng hiên ngang lúc trai tráng không còn nữa.

Trung bình khi về già, đàn ông thấp đi khoảng 2 phân, đàn bà 1,5 phân. Đây là do ảnh hưởng của một số yếu tố như sự giảm nước trong cơ thể, các bắp thịt yếu, thay đổi vóc dáng, xương sống hao mòn và biến dạng.

Riêng ở nữ giới, nguyên nhân chính của co ngắn chiều cao vẫn là bệnh loãng xương (osteoporosis).

 

4- Thay đổi về sức nặng, dung lượng nước của cơ thể

 Kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu đều xác nhận là, sức nặng của cơ thể tăng lên ở tuổi trung niên rồi giảm xuống lúc tuổi già. Đồng thời, tế bào mỡ tăng và thay thế vào chỗ những tế bào thịt bị tiêu hao vì ta không sử dụng đến chúng. Tế bào mỡ xuất hiện nhiều nhất ở vùng bụng và hông.

Ở tuổi thanh niên, 60% sức nặng của cơ thể là nước. Khi về già chỉ còn có 51%.

Nữ giới cũng vậy: từ 51% lúc trẻ xuống 46% lúc về già. Nguyên do là số lượng tế bào chứa nhiều nước mất đi hoặc teo đi

 

5- Một số những thay đổi khác

Nhận xét chung cho thấy, về già vòng ngực tăng lên, sống mũi và dái tai dài ra một chút.

 Trên xương đầu thì những khớp nối của xương dính liền lại, xương sọ dày lên.

 Móng tay, móng chân mọc chậm, đổi mầu và có những lằn gợn gồ ghề.

             

Kết luận

Trên đây là những thay đổi bình thường xẩy ra trong tiến trình lão hoá.

Ngày nay khoa học đã chứng minh là ta có thể làm những thay đổi này chậm lại bằng cách sống theo quy luật thiên nhiên, dinh dưỡng hợp lý, tránh lạm dụng những chất có hại cho cơ thể, vận động xương thịt đều đặn cho khí huyết lưu thông, gân cốt thư dãn.

Cũng như giữ cảnh lòng luôn luôn an lạc, như lời người xưa: “Lạc giả trường thọ, ưu giả dị yểu”.

 

Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức, Texas-Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************